Sưu tập - Chia sẻ - Bảo tồn sách Võ Thuật Phi lợi nhuận
Luận về chữ Lễ trong Võ Đạo
Người luyện võ rất coi trọng lễ và giữ lễ.
Trong thời đại giao lưu, hội nhập; khi các mối quan hệ xã hội trở nên mong
manh, các giá trị truyền thống dễ bị lung lay, biến dạng, cả hoà tan; xem ra chỉ
có võ là còn giữ truyền thống “tôn sư trọng đạo”, là còn trọng lễ và giữ lễ.
“Học lễ” là nội dung được thực hành liên tục, kiên định, nhất
quán trong suốt quá trình dạy võ và học võ. Ngày đầu tiên đi học võ, người học
phải trải qua thủ tục “Bái sư nhập môn”. Tuy không rườm rà như ngày
trước, nhưng phép tắc thì phải duy trì: người học thắp cây hương trên bàn thờ
Tổ, được gặp mặt Thầy, được giới thiệu với vị Huấn luyện viên trực tiếp huấn
luyện, đặc biệt được hướng dẫn để biết phép tắc và những qui định của Võ đường…
Bởi vì nơi tập là một Đạo đường, nên mỗi lần vào ra, người học phải cúi chào.
Bất cứ lúc nào gặp thầy, bạn, huynh đệ, đều phải cúi chào. Bắt đầu và kết thúc
một buổi tập, môn sinh phải chào Tổ, chào Thầy. Bắt đầu và kết thúc một trận
đấu tập, hai đối thủ phải cúi chào nhau. Bắt đầu và kết thúc một bài quyền bao
giờ cũng là cái chào. Bài tập đầu tiên trong cuộc đời học võ là bài chào. Trong
Võ đường, và qua các kỳ kiểm tra, người học võ được đánh giá dựa trên hai tiêu
chuẩn: thành tựu công phu và phẩm chất đạo đức, được thể hiện qua cung cách
quan hệ, ứng xử với mọi người… Với những ai hiểu, thì đó không chỉ là hình thức
mà còn bao hàm cả nội dung. Với những người học còn nhỏ tuổi, chưa kịp hiểu,
thì cứ kiên trì thực hành lễ, một ngày kia tất sẽ ngộ ra ý nghĩa bên sau mỗi cái
chào.
Người học võ chân chính không coi cái chào là lễ, mà là hình
thức của lễ, cách thể hiện lễ. Cái chào ngầm chứa nội dung vô cùng quan trọng,
vốn là kim chỉ nam của người học võ, đó là cái đạo của võ và đạo đức của người
học võ, gọi chung là võ đạo. Cái chào chỉ như bóng điện, võ đạo mới là
dòng điện. Không có dòng điện, bóng điện không thể toả sáng; không có tinh thần
võ đạo, cái chào chỉ còn là động tác gật đầu.
Cũng như quá trình tích tụ năng lượng để thắp sáng bóng đèn, quá
trình học võ là quá trình tu dưỡng phẩm chất, đạo đức làm nền tảng cho hành vi
ứng xử trong các mối quan hệ xã hội. Tuỳ theo từng mối quan hệ xã hội mà hành
vi ứng xử khác nhau. Ví dụ, đối với cha mẹ khác đối với thầy, với bạn; đối với
người thân, khác với kẻ sơ; với ân nhân khác với kẻ thù; cung cách đi dự đám
cưới khác với dự đám ma… Nhưng dù sắc thái có khác nhau thế nào, thì tất cả đều
được hình thành trên một nguyên tắc chung. Nói cách khác, nội dung ứng xử thì
tuỳ từng mối quan hệ; nhưng nguyên tắc ứng xử thì chung nhất.
Người đời thường coi trọng hình thức của lễ, nội dung của lễ,
nhưng con nhà võ còn coi trọng nền tảng, nguyên tắc của lễ. Các nguyên tắc đó
là:
Nhân ái và tôn trọng
Nói tôn trọng là tôn trọng quyền tồn tại, quyền sống, quyền làm
người, quyền làm người không giống ai. Trong đời sống xã hội, vị trí mỗi người
tuy chẳng giống nhau, nhưng nhân cách làm người thì không khác nhau – ai cũng
sinh ra và lớn lên bằng trái tim của mẹ; ai cũng bình đẳng trước thượng đế và
trước cái chết. Có tinh thần tôn trọng, người tập võ không hạ mình trước bất cứ
ai, không phân biệt ai hơn ai; không tâng bốc người trên, không miệt thị người
dưới. Tôn trọng con người, tôn trọng mình, tôn trọng đối thủ, đó là một trong
những phẩm chất hàng đầu của người học võ.
Nhân ái là mục đích cuối cùng của người học võ, nó giúp định
hướng hành vi của người học võ. Dù nghĩ gì, làm gì, nói gì, xử sự thế nào, tất
cả đều phải nhằm mục đích làm sao cho con người tốt hơn, cho mình tốt hơn, cho
đời đẹp hơn. Nếu không vì lòng nhân ái, hành động của người học võ không khác
chi hành động của tên cướp, nhưng nếu vì lòng nhân ái, hành động của anh ta sẽ
là hành động anh hùng – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo
trừ bạo” (Nguyễn Trãi).
Khiêm tốn và nhún nhường
Thói kiêu căng tự mãn là kẻ thù lớn nhất của người học võ. Sự
hiểu biết không bao giờ có giới hạn. Ai không thấy thiếu sẽ không thêm được gì.
Ai không biết ẩn mình sẽ không bay cao. Cái thùng đã đầy thì không còn chứa
được nữa. Muốn nhảy lên cao thì phải rùn thấp. Muốn vượt qua xà phải biết uốn
mình. Với người học võ, đức khiêm tốn không làm cho mình bé lại mà giúp mình có
sức mạnh đi xa về trước; không làm cho mình thấp hơn đối thủ mà làm cho đối thủ
không cao hơn mình. Đức khiêm tốn còn thể hiện đạo đức của người học võ: yêu
người, vì người, “đi trước về sau”, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái
vui của mọi người”.
Niềm tin và bản lĩnh
Ở đời, không ai có tất cả, không ai không có tất cả. Con gà
trống gáy một tiếng, cả làng thức dậy, nhưng không đẻ được trứng; con gà mái đẻ
được trứng, nhưng không làm kinh động được ai. Ông nông dân lấy vợ, sinh con,
lao động cực nhọc nuôi sống gia đình, nhưng không làm được nhạc. Ông nhạc sĩ
tài danh sáng tác cả pho nhạc hay làm rung động trái tim bao thế hệ, nhưng
không có vợ con, không cuốc nổi một luống đất. Thật vô lý nếu ông nông dân nọ
mặc cảm vì không sáng tác được nhạc; hoặc ông nhạc sĩ kia đau buồn vì không làm
tròn thiên chức lấy vợ, sinh con. Cho nên, học võ là học để biết mình là ai,
biết cách hun đúc mình, hoàn thiện mình, có niềm tin và tự hào về mình. Mất
niềm tin là tự đánh mất vũ khí của mình. Niềm tin, đối với người trí thức, đó
là sức mạnh nội tâm; đối với bậc thiền sư, đó là tinh thần vô uý; đối với người
học võ, đó là dũng khí của người chiến sĩ. Mất niềm tin, con người hoặc rơi vào
tự ti, trầm cảm; hoặc trở nên hung hăng, gây hấn. Chỉ có bản lĩnh, có niềm tin,
người học võ mới có sức mạnh để thể hiện cái đức nhân ái, khiêm tốn, nhún
nhường, và tôn trọng người khác.
Nhân ái và tôn trọng, khiêm tốn và nhún nhường, bản lĩnh và niềm
tin, đó không chỉ là nền tảng của mọi hành vi ứng xử, mà còn là nền tảng của
tinh thần Hoà Hợp. Mục đích tối thượng của người học võ là thiết lập mối quan
hệ tốt đẹp giữa con người và con người với tinh thần: cộng tác, cộng đồng, cộng
hưởng, cùng hưởng… trong xã hội; thái hoà trong gia đình, và an lạc trong bản
thân. Đây là điểm thanh niên chúng ta đang thiếu, thậm chí thiếu trầm trọng.
Thanh niên chúng ta thiếu cái thuận mà thừa cái nghịch, thiếu cái hoà mà thừa
cái bất hoà, thiếu đoàn kết mà thừa chia rẽ. Tôi từng nghe nói: “Một người Việt
Nam và một người Nhật, thì người Nhật không bằng người Việt Nam. Ba người Việt
Nam và ba người Nhật, thì ba người Việt Nam không bằng ba người Nhật”. Ấy là
cách khẳng định thói xấu bất hợp tác, mất đoàn kết của người mình đó thôi. Vì
sao ư? Có chi đâu, là vì chúng ta thiếu cái đức tôn trọng, yêu thương, khiêm
tốn, bản lãnh và một sức mạnh nội tâm. Ở đời, phàm kẻ nào không có sức mạnh nội
tâm, không có bản lĩnh, kẻ đó sẽ không nói được tiếng xin lỗi, xin cám ơn, xin
vui lòng, xin nhận trách nhiệm… Và chắc chắn kẻ đó không thể thiết lập được mối
quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Tất nhiên, ở trường học và trong gia đình, ai cũng mong muốn dạy
con em mình biết lễ phép, biết cách ăn ở, cách đối nhân xử thế. Nhiều trường
học nêu cả khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở cổng trường và trong các lớp
học. Nhưng xem ra, chỉ có võ là dạy cái lễ cho người học hiệu quả nhất. Nói vậy
là vì, chỉ có võ mới có chương trình học vừa cả võ vừa cả lễ; nội dung kiểm tra
lên đai đẳng cũng bao gồm cả lễ và võ. Ngoài ra, việc thực hiện chương trình
“học lễ” xuyên suốt, nhất quán, và triệt để. Đặc biệt, võ coi trọng đào luyện
cái gốc song song với cái ngọn, nội dung song song với hình thức, nền tảng song
song với biểu hiện – coi trọng việc giáo dục cho người học tinh thần nhân ái,
tôn trọng con người, khiêm tốn, niềm tin, và bản lĩnh, song song với việc dạy
cho các em cách đối nhân xử thế, cách quan hệ ứng xử cho phải phép, phải đạo
với mọi người.
Tiếc rằng, hiện nay nhiều người hiểu không đúng về võ. Họ cho võ
là đánh nhau, là vai u thịt bắp, là mặt rổ mặt rạch… Họ không hề hiểu võ là một
hình thái nghệ thuật, là công cụ giáo dục đạo làm người; học võ là học đạo làm
người. Thêm vào đó, cũng vì có nhiều người dạy võ chỉ dừng lại ở mức “võ thuật” mà chưa đạt tới được mức “võ lý” và “võ đạo” – chỉ dạy cho
người học cách đánh mà không dạy cho họ đánh ai, đánh thế nào, bảo vệ ai, bảo
vệ cái gì… Đã thế, trong xu thế thị trường hoá, thương mại hoá, thể thao hoá,
võ bị xếp ngang hàng với các môn thể thao khác. Người ta chạy theo thành tích,
huy chương mà quên mất sứ mệnh giáo dục; chạy theo hư danh mà quên đi thực
chất. Tất nhiên, võ cũng là một môn thể thao, nhưng không phải đơn thuần chỉ là
một môn thể thao. Võ là môn thể thao truyền thống. Nó vừa phải làm nhiệm vụ đào
tạo những vận động viên xuất sắc cho thể thao nước nhà, vừa phải hoàn thành sứ
mệnh dạy cho người học sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, đối nhân xử thế.
Hẳn chúng ta đều biết, “Tinh thần Nhật Bản”, “Sức mạnh Nhật Bản”
được hun đúc bởi ba dòng sữa: Thần đạo Shinto, Phật giáo Thiền tông, và Tinh
thần Võ đạo. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, võ là một
trong hai dòng suối tạo nên Sức mạnh Việt Nam – “Sống vững chãi bốn nghìn năm
sừng sững. Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Trong và thật sáng hai bờ suy
tưởng. Rất hiên ngang mà nhân ái chan hoà” (Huy Cận). Từ Đinh, Lý, Trần, Lê,
Nguyễn… các bậc khai quốc, công thần đều xuất thân từ con nhà võ. Nhiều trong
các triều đại ấy đều có trường dạy võ, chương trình học võ, và các kỳ thi võ
(Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ). Rõ ràng, cùng với văn, võ đã góp phần hun đúc
nguyên khí quốc gia, sức mạnh dân tộc; góp phần đào luyện con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có sức mạnh, niềm tin, và khí phách; được thử lửa qua suốt
chiều dài lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Ngày nay, đất nước ta hoà bình, thống nhất, thịnh vượng. Chúng
ta có nhiều bạn bè, nhiều đối tác khắp năm châu. Chúng ta đang hân hoan vươn ra
biển lớn. Nhưng nhìn lại, xem ra dòng suối võ ngày nào không còn chảy nữa!
Không biết nó tắt từ thời nào? Vì sao tắt? Có cần khơi thông không? Làm thế nào
khơi thông trở lại để võ tiếp tục góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước? Rất cần các công trình nghiên cứu nghiêm túc, các hội nghị khoa
học để làm sáng tỏ những vấn đề ấy.
Thiết nghĩ, dù đứng trước kẻ thù hay đứng trước đối tác làm ăn,
mỗi dân tộc, mỗi con người đều phải cần có sức mạnh, niềm tin, và khí phách.
Thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, thì không thể đánh thắng ngoại xâm;
thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, cũng không thể làm ăn sòng phẳng với
người.
Theo: https://www.vothuat.vn/vo-thuat-cuoc-song/luan-ve-chu-le-trong-vo-dao.html
Bạn đang xem LUẬN VỀ CHỮ LỄ TRONG VÕ ĐẠO tại TỦ SÁCH VÕ THUẬT 123 Đừng quên CHIA SẺ BẢN PDF MIỄN PHÍ đến những Bằng Hữu đam mê Võ thuật nếu bài viết có ích !
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét