CHƯỞNG MÔN PHÁI CƯƠNG NHU KARATE

tháng 4 19, 2022 |

 OSensei Ngo Dong's biography and the development of Cuong Nhu in Vietnamese language. Written by Lap T. Hoang, 2015.

Tôi hân hạnh chia sẻ với các anh chị và các bạn bài viết về anh Ngô Đồng, một người anh mà tôi rất quý mến. Tôi học võ với anh từ khi hai anh em gặp nhau ở đại học University of Florida năm 1971. Ngoài võ thuật ra, tôi học được nhiều thứ khác từ anh như cách sống hoà đồng, thuật ăn nói trước đám đông, phương pháp dạy võ, v.v... Anh Đồng là người tài hoa, có nhân cách lớn, đã đóng góp rất nhiều trong việc giáo dục rất nhiều thế hệ ở Việt Nam cũng như ở Mỹ. Vì không kèm được hình vào bài viết nên tôi để hình ảnh riêng, với vài lời chú thích cho mỗi tấm hình. Cám ơn anh Trương Đình Tín đã chỉnh sửa bài này. Bài viết năm 2015.
================================================


Võ Sư NGÔ ĐỒNG,
Người Sáng Lập Môn Phái Cương Nhu Karate

PHẦN I - Những tháng năm ở Hà Nội (1937 - 1954)
Ông Ngô Đồng sinh ngày 04 tháng 10 năm 1937 tại Hà Nội, Việt Nam trong một gia đình khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Ngô Khánh Thực, thân mẫu là bà Phạm Ngọc Vinh. Cụ ông tính tình thẳng thắn, sau khi làm ở các tỉnh thì thuyên chuyển về Hà Nội làm trong ngành Tư Pháp. Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, Cụ cùng gia đình di cư vào Nam. Khi gia đình sống tại Huế, thân phụ ông tiếp tục làm trong ngành Tư Pháp cho đến khi mất tại Huế năm 1967. Trước đó mấy năm, vào năm 1960, thân mẫu ông qua đời tại Huế.

Ông là người con út trong một gia đình có sáu người con trai. Điểm đặc biệt là cả nhà ông đều mê tập võ thuật, vì thế sau nhà ông ở có một sân dành riêng để tập võ. Còn trong nhà thì có nơi giăng dây để dùng cho việc đấu quyền Anh. Hai người anh lớn đều thuộc nhóm võ sinh đầu tiên của Võ sư Nguyễn Lộc, vị Tổ sư sáng lập môn võ Vovinam (sau đổi tên là Việt Võ Đạo). Ông cũng là người theo học môn võ Vovinam, nhưng không học với hai người anh ruột mà lại học với người bạn của ông anh thứ hai. Ông Ngô Đồng đã nói với tôi rằng đã là anh em thì trong võ thuật khó dạy cho nhau lắm! Cho nên, ông và người anh kế (Võ sư Ngô Quyền) mới theo học võ với Võ sư Phan Dương Bình, người học trò thứ 5 của Tổ sư Nguyễn Lộc. Ông cho biết, Vovinam vào những ngày đó chưa có võ phục như bây giờ, các võ sinh khi tập luyện chỉ mặc áo "may-ô" và quần đùi. Cũng chưa có sân tập hẳn hoi. Các võ sinh vật nhau té hay nhào lộn đều trên sân cỏ chẳng có nệm "tapi" như các võ đường sau này. Học xong phần trung cấp với Võ Sư Bình (tương đương với đai "nâu" bây giờ), thì đất nước bị chia cắt. Võ sư Bình ở lại miền Bắc và sau này trở thành một Võ sư danh tiếng, có rất nhiều học trò tên tuổi trong làng võ thuật. Còn ông và gia đình di cư vào Nam. Gia đình ông như đã nói, định cư tại Huế, vì thân phụ ông đang làm việc tại đây.
Ông cho biết trong thời gian ở Hà Nội, ngoài việc tập Vovinam, ông còn theo học môn võ Vĩnh Xuân (còn gọi là Vịnh Xuân) với một người thầy Tàu tên là Tế Công cùng với các anh. Tế Công là một võ sư chuyên nghiệp, trước đây ông làm nghề bảo tiêu ở Vân Nam, vì vướng tội nên đã trốn qua miền bắc Việt Nam. Thân phụ của ông lúc đó làm Chưởng Lý Toà Án, thấy Tế Công là người có tài nên thương tình, giảm tội cho. Để đền ơn, ông Tế Công xin được dạy cho các con của cụ cùng người cháu là ông Ngô Sĩ Quý môn võ Vĩnh Xuân này. Tuy được chân truyền môn võ Vĩnh Xuân, nhưng vì tuổi còn trẻ, lại thiếu hiểu biết về cái hay của loại Nhu quyền, nên ông không thích lắm, do thế ông thiếu chuyên cần trong việc tập luyện. Chính ông cũng công nhận rằng mãi về sau này ông vẫn chuyên luyện và thích tập môn Karate, cũng là một môn võ thiên về Cương. Mãi khi có cơ duyên tập về Judo và Aikido, ông mới bắt đầu cảm nhận được cái hay của môn võ thuộc Nhu này. Và cũng từ đó, ông suy nghĩ và phối hợp nhiều môn võ mình đã học, rồi khi mở võ đường, ông quyết định đặt tên trường là Cương Nhu.
Theo lời ông kể, lúc nhỏ ông rất nóng tính và rất "du côn ". Ông vốn rất ghét tụi du đãng ở Hà Nội lúc bấy giờ, nên thường hay gây sự để đánh nhau với chúng, đuổi chúng qua các phố khác. Ông cùng người anh kế là Ngô Quyền thường hay hẹn nhau để so tài, đánh nhau với nhóm du đãng Hà Nội. Trước khi lâm trận, bọn ông thường chuẩn bị bằng cách nhét tờ báo Life vào trong áo (báo Life xuất bản ở Mỹ, lưu truyền rộng ở đây trong những năm này, báo này trang lớn và rất dày).
Vào khoảng năm 1952, hay 1953, (cả ông và ông Quyền đều không nhớ rõ, ông chỉ nhớ độ khoảng một, hai năm trước khi di cư vào Nam), lúc đang ở nhà thì nghe tiếng gõ cửa, ông Quyền chạy ra mở, thì bị một tên du đãng đâm ngay một dao vào bụng rồi bỏ chạy. Vết thương nặng, nhưng may là không nguy hiểm lắm, và cũng mấy tháng sau ông Quyền mới bình phục. Vì vết thương ở bụng nên ông Quyền sau này không còn tập Vovinam được nữa. Về sau ông Quyền chuyên về Aikido và Thái Cực Quyền và trở thành võ sư của võ đường Tenshinkai Aikido ở Saigon.
Ông Đồng còn cho tôi biết, lúc nhỏ khi gây sự đánh nhau với nhóm du đãng Hà Nội, ông cứ nghĩ rằng mình là một "good guy" (người tốt), còn đối thủ của mình là "bad guy" (người xấu). Ông cứ tưởng rằng làm như vậy (đánh bọn du đãng) là giúp xã hội bớt đi một tệ nạn. Không ngờ làm vậy mình đã trở thành "du đãng lúc nào không hay".
Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam.
PHẦN 2 VÀ 3 - HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƯƠNG NHU KARATE Ở HUẾ VÀ HẢI NGOẠI
Vào đầu năm 1971, lúc bấy giờ Ông đang giảng dạy tại Đại Học Huế, vì có những thành tích xuất sắc trong việc giảng dạy và nghiên cứu, ông được cơ quan USAID của Hoa Kỳ cấp học bổng để tiếp tục hoàn thiện chương trình Tiến sĩ (PhD) ở Hoa Kỳ về ngành Côn Trùng Học (Entomology), một môn học tương đối mới lạ đối với sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ. Đến Hoa kỳ, mấy tháng đầu ông chuyên học thêm về môn Anh văn, để có thể tiếp thu tốt những kiến thức về môn mình đang theo học. Tháng 3 năm 1971, ông nhập học trường đại học University of Florida, khóa mùa Xuân.

Thầy Ngô Đồng, Gainesville, Florida 1973


Vừa theo học chương trình Tiến Sĩ nhưng Ông Ngô Đồng cũng muốn đem sở học của mình về võ thuật để, một là truyền dạy cho các sinh viên đang theo học tại đây, hai là muốn cho các sinh viên nước ngoài biết thêm về môn võ Cương Nhu Karate do một người Việt Nam huấn luyện, vì thế, ông gấp rút chuẩn bị để mở khóa huấn luyện võ thuật tại đây.
Lớp võ Cương Nhu Karate được bắt đầu vào khóa Mùa Thu (tháng 9 năm 1971), trong khuôn viên của trường đại học University of Florida (UF) thuộc thành phố Gainesville, tiểu bang Florida. Võ đường là nhà ăn của sinh viên vì lúc đó ông đang ở tại Cư Xá Sinh viên Beaty Towers, nên tạm thời mượn nhà ăn này để làm chỗ tập luyện. Lớp võ này mỗi tuần chỉ được hai tối, mỗi tối võ sinh tập trong một giờ rưỡi. Vì võ đường hiện là nhà ăn của sinh viên nên buổi tập bắt đầu khá trễ, khoảng 8 giờ tối. Sau khi sinh viên ăn tối xong, nhà ăn “cafeteria" đóng cửa, lúc đó chúng tôi mới dọn dẹp, sắp xếp bàn ghế vào một góc. Để làm được điều đó, thường thì phải đến sớm trước vài ba phút để sắp xếp. Sau khi tập xong lại đưa bàn ghế về lại vị trí như cũ.
Ảnh chụp ở picnic Cuong Nhu, khoảng 1973. 
Anh hay hát bài Nhặt Cánh Sao Rơi của Vũ Thành.


Lớp võ đầu tiên nầy có khoảng chừng trên dưới hai mươi võ sinh (xem hình đính kèm). Võ sinh phần lớn là những sinh viên cùng học lớp chuyên ngành với ông. Trong số các võ sinh này có 2 giáo sư trong chuyên khoa của ông theo học. Đó là giáo sư Harvey Cromroy và giáo sư Freddie Johnson. Cả khóa chỉ có một võ sinh nữ duy nhất là cô Mary Davis, cô này lúc bấy giờ là Thư ký của Khoa đồng thời cũng là sinh viên đại học. Sau này khi tốt nghiệp đại học, cô làm việc tại Atlanta và trở thành một trong những rường cột của môn võ Cương Nhu. Lớp này chỉ có hai người Việt theo học là ông Hoàng Thống Lập và ông Lê Trọng Hiếu, là những sinh viên từ Huế sang du học ở UF. Đặc biệt trong lớp võ đầu tiên này có một thiếu nhi mới mười hai tuổi tên là Allen Johnson con của giáo sư Freddie Johnson. Cả hai cha con giáo sư này đều lên đai đen vào năm 1974. Lớp lấy tên là Cương Nhu Karate Club, theo luật lệ của trường, Dr. Harvey Cromroy làm Giáo sư Cố vấn và đứng tên bảo trợ cho hội.
Sau hai lớp đầu tập ở Cư xá sinh viên Beaty Towers của trường, số võ sinh đã tăng lên trên năm mươi người. Vì số võ sinh đông nên lớp võ này quyết định dời đến sân vận động của trường, lúc đó gọi là Florida Gym. Florida Gym là tòa nhà chính của phân khoa thể thao, thể dục, tọa lạc bên cạnh sân Football Field (sân banh bầu dục) rất lớn của trường. Nói thêm một chút về Florida Gym. Lầu trên Florida Gym là sân bóng rổ, bóng chuyền, vũ cầu và các lớp học; tầng dưới là nơi tập tạ, phòng tắm cùng là nơi tập của các câu lạc bộ. Trước khi lớp Cương Nhu Karate dời vào đó thì ở đây trường cũng có các lớp Isshin Ryu Karate và Kenpo. Hồi đó trường chưa có các lớp dạy Judo, Aikido hay Tae Kwon Do. Tầng dưới Florida Gym rộng nên các lớp chia nhau góc này, góc kia riêng biệt nhưng các võ sinh đều đối xử với nhau thân mật, vui vẻ. Các club võ thuật trên lúc đó chỉ có khoảng chừng hai chục người, riêng môn Kenpo chỉ có vài người thôi.
Lớp Cương Nhu Karate phát triển rất nhanh. Chỉ trong vòng hai năm (từ năm 1971 đến 1973), club này đã có nhiều người tham gia nhất của đại học UF. Võ sinh của club này có đến mấy trăm người, một việc rất hiếm cho các club thời đó. Theo hồ sơ được ghi nhận thì vào tháng 8 năm 1975 có đến 500 võ sinh đã theo học.

Sự kiện này đã làm cho các nhà báo của trường cũng như của thành phố ngạc nhiên và phỏng vấn ông Ngô Đồng về bí quyết thành công của Cương Nhu Karate ở Gainesville. Một tờ báo lớn có tầm cỡ quốc tế vào thời đó là tờ Karate Illustrated đã đăng vào năm 1973 một bài rất chi tiết nhan đề là “Vietnamese Self Defense Hits The Astroturf” (Tự vệ Việt Nam trên sân cỏ Mỹ). Theo bài báo này, Ông Ngô Đồng cho biết Cương Nhu Karate bắt đầu từ Huế. Ông nói rằng lúc thiếu thời ông học Vovinam, Vịnh Xuân và tập boxing ở Hà Nội (xem chi tiết phần 1). Năm 1954, ông theo gia đình vào Huế, học trung học ở trường Quốc Học năm 1956. Sau khi thi đỗ Tú tài thì ông học môn Sinh Vật tại Đại học Huế. Sau bốn năm miệt mài ông tốt nghiệp Cử Nhân và được trường giữ lại làm Giảng nghiệm viên. Khoảng mấy năm sau, khi võ sư Choji Suzuki mở võ đường dạy môn Karate ở Huế thì ông là một trong những người học trò đầu tiên của vị Võ sư này. Võ sư Choji Suzuki là một sĩ quan Nhật, sau thế chiến thứ hai thì ở lại Việt Nam để dạy các môn võ Jujitsu và Karate. Nhờ có năng khiếu, lại có luyện Vovinam trước đây nên ông đã tiến rất nhanh trong môn Karate. Ông nói rằng, mặc dầu trước đây ông có học võ Vịnh Xuân với hai người anh nhưng cho biết ông không thích các môn võ chuyên về “nhu” này lắm, vì theo ông, không thấy môn võ nầy có lợi ích trong việc đánh nhau thật sự. Còn môn Karate thì “cương mãnh” học rất mau tiến và nhất là thực dụng. Trong một cuộc phỏng vấn ông đã trả lời với báo chí rằng: “Lúc nhỏ tôi chỉ hiểu công dụng của đấm đá mà thôi chứ không hiểu được điều ảo diệu của các môn võ “Nhu”. Ông đam mê Karate, say mê tập luyện, mỗi tuần ông tập năm buổi, ông là một trong những võ sinh nhận đai đen đầu tiên của Võ sư Choji Suzuki. Sau thời gian tập luyện, ông còn giúp Võ sư Choji Suzuki trong việc dạy võ cho các võ sinh mới. Sau khi lên đai nâu, ông trở thành phụ tá cho Võ sư, giúp Thầy trong việc dạy cho các võ sinh đàn em.
Cũng nói thêm rằng, sau nhiều năm luyện tập Karate với Võ sư Suzuki, ông lại may mắn có cơ duyên học thêm môn Aikido với ông Ernie Cates, lúc đó là Sĩ Quan của quân đội Hoa Kỳ, ở Việt Nam từ 1964 đến 1967. Ông Cates là một trong những người Mỹ đầu tiên được huấn luyện Nhu Đạo ở võ đường Judo Kodokan, và khi còn ở Nhật, ông còn có dịp học thêm môn Aikido với nhiều võ sư cao cấp nhất, và vô địch ở Mỹ trong hạng nhẹ, đại diện nước Mỹ để đấu trong Thế Vận Hội Đông Kinh 1964. Ông Đồng cũng đã trả lời với báo chí rằng: “Từ khi tập thêm Aikido với ông Cates, tôi bắt đầu hiểu công dụng của “Nhu”, và cảm thấy quá trình tập luyện của mình trong Karate chưa đủ. Karate không chú trọng nhiều về phần tâm linh và luyện “Khí” mà tôi tìm thấy trong Aikido. Aikido có nhiều ứng dụng giúp cho những con người nhỏ con có thể đối phó với sức mạnh của người lớn con hơn, mạnh bạo hơn”.
Một trong những điều mà Võ sư Ngô Đồng băn khoăn là mục đích của võ thuật là gì. Ông nghĩ rằng mục đích của võ thuật hướng tới phải cao hơn, lợi ích hơn cho cuộc sống thường nhật hơn là chỉ chuyên đến việc đánh đấm cũng như như dùng nó để tự vệ. Trong một bài phỏng vấn khác ông đã nói tiếp: “Đá vỡ bốn tấm gỗ hay chặt bể năm viên gạch, là để làm gì? Nếu chỉ tập đấm đá không thôi thì cả đời nhiều lúc cũng không có cơ hội để sử dụng”. Ông băn khoăn: “Mục đích của võ thuật là gì? Không lẽ học võ thuật là chỉ để biết thế này thôi à? Tôi nghĩ học võ thuật trước nhất là dùng nó để phát triển lòng can đảm, lòng tự trọng, tự tin cũng như tự chế ngự thân tâm và phải luôn luôn khiêm nhường”. Ông nói tiếp: “Sức mạnh về thể lực rồi ngày cũng yếu đi theo tuổi tác và thời gian, làm gì có sự vĩnh cửu về nó, nhưng đạo đức, sức mạnh về tinh thần sẽ tồn tại mãi mãi”.
Ông có cảm nhận rằng cần phải tổng hợp thể lực và tinh thần vào một môn võ để nó trở thành một phương tiện trong đời sống hằng ngày. Chính vì suy nghĩ như thế nên ông không bỏ Karate, mà làm một cuộc tổng hợp Karate. Ông thêm môn Judo, Aikido và một một số các môn võ mà ông đã học trước đây để sáng lập ra môn Cương Nhu vào năm 1965. Lớp võ đầu tiên được mở ra ở Đại Học Huế vào tháng 8 năm 1965, và chỉ vài năm sau môn võ mới nầy đã có hàng trăm võ sinh theo học. Và, Cương Nhu Karate đã trở thành môn võ có đông học sinh nhất ở Huế thời đó.
Trong những năm chiến tranh, nhiều võ sinh tìm đến môn Cương Nhu Karate không đơn thuần chỉ vì yêu võ thuật mà còn xem đây như là một món ăn tinh thần để điều hòa cuộc sống của mình. Có thể nói rằng môn Cương Nhu phát triển rất nhanh ở Huế. Các nguyên tắc và tinh thần võ đạo Cương Nhu đã trở nên những phương tiện giúp võ sinh vượt qua được những khó khăn trong đời sống thường nhật để tự điều chỉnh thân tâm mình, giúp mình tự tin, và nhất là nhìn đời một cách lạc quan hơn.
Với triết lý âm dương hòa hợp, bằng vào phương pháp tự vệ khoa học và độc đáo của môn võ này, bằng vào việc nâng cao thể lực và trí dục trong cách huấn luyện nên đã có rất nhiều người theo học môn Cương Nhu Karate ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ. Tuy vậy, những người học môn võ này cho biết lý do chính mà nhiều người theo học môn võ này, ngoài những ưu điểm của nó thì sỡ dĩ môn võ này phát triển rộng khắp, một phần lớn là chính do người Thầy đã dạy họ, ông Ngô Đồng.
Theo ông Cochran, một võ sinh theo học với võ sư Ngô Đồng, khi được phỏng vấn đã trả lời với báo chí đại ý như sau: “Tôi nghĩ rằng, ai đã học với Thầy (Ngô Đồng) đều phải đồng ý với tôi rằng khó mà tìm đâu ra được một người Thầy dạy hay như thế. Ông quả là người rất hiếm có. Ông có một phương pháp dạy tuyệt vời thích hợp cả với người muốn chuyên về thể dục cũng như những người đang đi tìm một triết lý sống cho chính mình. Tuy triết lý võ học cũng như tài năng võ thuật cao siêu của Ông khiến nhiều người muốn theo học, nhưng theo tôi, lý do chính mà họ kiên trì tập luyện môn võ Cương Nhu này vì Ông là một nhà giáo tuyệt vời”.
Trong nhiều năm huấn luyện môn Cương Nhu ở Mỹ, ông vẫn luôn băn khoăn và chia sẻ với mọi người câu hỏi luôn hiện ra trong tâm trí ông: “Làm thế nào để môn Cương Nhu này vẫn tiếp tục đứng vững và phát triển trên đất Mỹ sau khi ông trở về nước khi đã hoàn thành việc học tập của mình?” Như một cơ duyên, là trong các lớp đầu tiên tại đây, có nhiều người rất giỏi trong việc tổ chức và đã giúp ông nhiệt tình trong việc tổ chức hành chánh cho Cương Nhu lúc khởi đầu, lập cơ sở vững chắc cho sự trường tồn của nó.
Mùa xuân năm 1973, Hội Cương Nhu Karate Association (CNKA) trở thành hội chính thức. Hội được tiểu bang Florida công nhận. Hội hoàn toàn độc lập, không trực thuộc trường UF hay hội nào khác. CNKA có thể nhận dạy võ sinh, không hạn chế phải là sinh viên hay giáo chức của trường như trước. CNKA có luật lệ (by-laws) riêng, thường được tổ chức bầu cử hằng năm, có Ban Giám đốc do hội bầu ra. Vị Chủ tịch được mọi người bầu lên đầu tiên là ông Mike Cochran, thứ hai là ông Ted Srygley. Mike và Ted lúc đó đã gần bốn mươi tuổi. Ông Mike có công ty riêng, còn Ông Ted lúc đó là Giám đốc Thư viện của trường Y, Nha và Dược. Cả hai ông đều rất giỏi, bình dị, chín chắn, giao thiệp rộng, hòa đồng và có khả năng lãnh đạo rất cao. Hai vị này cùng với hai giáo sư Harvey Cromroy và Fredie Johnson, lúc đó là Cố vấn của Cương Nhu Karate Club, có công rất lớn trong việc phát triển CN vào các năm đầu.
Về việc học, ông Ngô Đồng có một trí nhớ tuyệt vời, ông học rất giỏi, nên chỉ sau 3 năm ông trình luận án hoàn tất bằng Tiến sĩ (PhD) vào tháng 6 năm 1974. Biết thì giờ mình ở Hoa Kỳ không còn nhiều, nên trong năm cuối, ông đã ra sức huấn luyện cho võ sinh hai lớp đầu tiên. Tháng 11 năm 1973, ba võ sinh xuất sắc nhất của lớp là Hoàng Thống Lập, Phil Morgan và John Benson được chọn thi lên đai đen. Kỳ thi đó gồm có công phá, mỗi người đánh hay đá hay chặt bể gỗ trong 4 hướng, mỗi hướng là ba tấm gỗ. Kế tiếp mỗi thí sinh đi quyền, song đấu với đồng môn, biểu diễn các thế tự vệ, và nói chuyện 10 phút trước mọi người. Trên ba trăm người đã tham dự kỳ thi đai đen đầu tiên được tổ chức ở Gainesville, Florida. Ngoài võ sinh các lớp, ông còn cho mời thêm nhiều người nữa để chứng kiến sự trưởng thành của môn phái. Cả ba thí sinh nói trên hôm đó đều vượt tiêu chuẩn và được phong lên đai đen ngay sau khi thi.
Vài hôm sau, ngày 02 tháng 12 năm 1973, trong lớp học, ông đặc biệt trao bằng Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng cho ông Hoàng Thống Lập. Ông Lập là người đầu tiên được lên đai đen và được cấp bằng Huyền Đai Đệ Nhất đẳng Cương Nhu Karate ở hải ngoại. Mấy tháng sau đó các võ sinh khác cũng được thi lên đai đen. Đến tháng 6 năm 1974, khi Ông Ngô Đồng rời Florida về nước thì Cương Nhu ở Mỹ đã có tổng cộng 12 đai đen.
Khoảng một tháng trước khi Ông về nước, Ông đã họp các võ sinh đai đen và đai nâu lại, khoảng chừng 35 người, và nói về mong ước của Ông là làm sao để Cương Nhu có thể tồn tại và phát triển ở Mỹ. Ông nói rằng môn phái cần phải có một người lãnh đạo Cương Nhu Karate ở Mỹ sau này. Người này sẽ được gọi là Chief Instructor (Võ Sư Trưởng tràng), làm chủ tịch “Black Belt Committee”, một Uỷ ban các huyền đai. Chief Instructor và Ủy ban năm người sẽ chấm thi và có quyền phong các võ sinh khác lên huyền đai. Ông muốn mọi người được quyền bầu chọn Chief Instructor nên đã trao cho mỗi người một tấm giấy nhỏ để họ điền tên người mà họ thấy xứng đáng trong chức vụ lãnh đạo này. Khi đếm phiếu thì ông Hoàng Thống Lập được đa số tuyệt đối bầu chọn. Lúc đó, ông Lập 24 tuổi, đang học cao học Kỹ Sư ở UF. Ông Lập đã chính thức giữ chức Chief Instructor từ tháng 6 năm 1974 cho đến tháng 11 năm 1977, lúc Võ Sư Ngô Đồng trở lại Gainesville, Florida, Hoa Kỳ.
Chỉ vỏn vẹn có ba năm ở hải ngoại, Ông đã dạy trên mấy trăm võ sinh, trong đó có mười hai người lên huyền đai, đặt nền tảng cho sự trường tồn của Cương Nhu Karate ở hải ngoại với một tổ chức hành chánh chặt chẽ cùng với một tập thể võ sinh có võ đạo và võ thuật vững vàng, nhiệt tâm, hết lòng trong việc phát triển môn phái sau này.

PHẦN 4 - CƯƠNG NHU KARATE, GIAI ĐOẠN 1974 – 1977
Trong khoảng thời gian này, Cương Nhu phát triển rất nhanh trong tiểu bang Florida. Các võ sư huyền đai chia nhau dạy các lớp võ trong các trường đại học. Đến cuối năm 1975 CNKA và các võ sư đã thuê một phòng tập lớn ở phố chính để dời trung tâm từ các trường Đại học ra thành phố, mở thêm nhiều lớp, dạy cả người lớn lẫn trẻ em. Trung tâm ở địa chỉ 809 W. University Ave., Gainesville, Florida (cho đến nay, 2015 vẫn còn hoạt động). Trung tâm lúc đó có tên là Cương Nhu Karate Center. Theo tờ nội san cũ thì đến tháng 8 năm 1975, số võ sinh theo học là 500 người.
Nhiều võ sư bắt đầu tốt nghiệp đại học hay hoàn tất chương trình Tiến sĩ, rồi theo công việc đi các nơi khác để lập nghiệp. Ở Gainesville vào lúc đó có võ đường Dragon Gate (Long Môn) của hai Võ sư John Kay và John Benson. Võ Sư Hoàng Thống Lập mở võ đường Phoenix Center (Phượng Hoàng) ở Tallahassee và dạy ở Florida State University. Võ sư Eddie Wacks và Mike Arnspiger mở các võ đường ở Miami. Những võ đường này tuy ở xa trung tâm nhưng đều hổ trợ cho hội Cương Nhu Karate Asociation bằng cách đóng niên liễm và lệ phí thi lên đai.
Sau khi Ông Ngô Đồng tốt nghiệp PhD ở đại học University of Florida và trở về Huế vào tháng 6 năm 1974, Ông tiếp tục làm việc ở Viện Đại Học Huế nhưng chỉ hơn tháng sau, Hội Đồng Nhân Sĩ Quảng Nam Đà Nẵng đã đến tận nhà và mời Ông vào chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Quảng Đà, một trường đại học sắp thành lập. Ông nhận lời và cùng gia đình dời vào Đà Nẵng. Mùa thu năm 1974, Ông bắt đầu đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng. Mấy tháng đầu tiên, Ông bắt đầu đặt nền móng cho sự phát triển của trường đại học mới và đầy tiềm năng ở một nơi rất xem trọng việc học. Ông hăng say trong nhiệm vụ của một nhà giáo, làm việc quên ăn quên ngủ trong niềm hạnh phúc và vui mừng khi nghĩ rằng việc làm của mình sẽ ảnh hưởng tốt đến nhiều thế hệ trẻ sau này. Tiếc thay, Ông chỉ ở trong chức vụ đó cho đến tháng 3 năm 1975. Cùng với sự đổi thay của đất nước, phận người theo vận nước, gia đình ông phiêu bạt vào Saigon. Tháng 6 năm 1977, Ông cùng gia đình vượt biên và sau mấy ngày lênh đênh vô định trên biển cả, sau khi đã hết thức ăn, nước uống và nhiên liệu, sau khi vô số thuyền lớn đi qua mà không cứu thì may thay, một thuyền của người Indonesia đã cứu nạn cho gia đình ông và hơn ba mươi người khác cùng đi trên chiếc thuyền bé nhỏ. Tháng 11 năm 1977, Ông Ngô Đồng và gia đình từ trại tỵ nạn ở Indonesia được đến định cư ở Mỹ và trở lại thành phố Gainesville trong sự vui mừng của bạn học và học trò võ của Ông.
PHẦN 5 - CƯƠNG NHU - GIAI ĐOẠN 1977-2000
Ông Ngô Đồng trở lại Mỹ vào tháng 11 năm 1977, cùng với vợ, Bà Tôn Nữ Thanh Châu, và bốn người con Ngô Bảo, Ngô Quỳnh, Ngô Anh và Ngô Anh Thư. Ngày ông trở lại cũng là ngày “Homecoming Day’ của trường Đại học, ngày lễ hằng năm của trường. Học trò Ông đã thuê nhà, trang bị bếp núc, trả tiền nhà trước một năm. Ông tiếp tục công việc nghiên cứu về bộ môn Côn Trùng Học (Entomology) ở phân khoa Entomology của trường đại học Florida. Bà thì dạy chương trình song ngữ đặc biệt trong các trường trung học, còn bốn người con thì vào các lớp tiểu học và trung học.
Ngoài công việc nghiên cứu ở Phòng Thí nghiệm, ông dành thì giờ để dạy võ cũng như quản trị luôn Cương Nhu Karate Center. Trung tâm này chia ra dạy rất nhiều lớp. Các võ sư lớp đầu tiên, nay đã có thêm các học trò, có nhiều kinh nghiệm, môn Cương Nhu Karate đã phát triển nhanh trên toàn nước Mỹ, số võ sinh đóng niên liễm lúc đó lên đến hai nghìn người.

Hoàng Thống Lập, ảnh 1978


Năm 1984-1985, Ông đổi tên Cương Nhu Karate thành Cương Nhu Oriental Martial Arts và hướng mục đích của Cương Nhu từ Võ thuật đến Dưỡng sinh. Ông cũng đổi tên Cương Nhu Karate Center (Trung Tâm Cương Nhu Karate) thành Cương Nhu Health Center (Trung Tâm Sức Khoẻ Cương Nhu).
Cũng trong khoảng thời gian này, Ông chú tâm chuyên luyện về Nhu quyền và Khí Công. Với sự trợ giúp của các võ sư cao đẳng, Ông đem chương trình Nhu thêm vào chương trình huấn luyện của các lớp trên huyền đai.
Ông đam mê luyện Nhu quyền, và đến khi gần 50 tuổi, Ông đột nhiên khám phá mình có năng khiếu bẩm sinh về chạy. Lần đầu tiên Ông chạy hơn 8 km mà không thấy mệt. Trong mấy tháng liền Ông ghi tên tham gia chạy đua các cự ly 5, 8, 10, 12 km. Và chỉ trong vòng 9 tháng sau, Ông đã hoàn tất thêm 2 kỳ nửa marathon (21.1 km) và hai kỳ marathon (42.2 km). Ngày 04 tháng 1 năm 1986, Ông hoàn tất marathon ở Jacksonville, Florida trong vòng 3 giờ 41 phút 07 giây và thấy trong người không một chút mệt mỏi nào nên một tuần sau đó, vào ngày 11 tháng 1, Ông chạy luôn giải marathon ở Ormond Beach, Florida và hoàn tất trong 3 giờ 45 phút 11 giây.
Trong vòng mấy năm sau đó, ông đã hoàn tất 23 marathons, 8 cuộc đua 50 dặm (80 km = ultra marathons) và 14 cuộc đua 100 dặm (160 km). Chạy 160 km không nghỉ, chỉ ngừng lại ở dọc đường để lấy bánh mì, nghĩa là vừa ăn vừa chạy.
Trong một bài viết về thú vui khi chạy, đăng trong nội san Cương Nhu, Ông đã viết: “Tôi chạy đường trường không phải là để tranh đua đoạt huy chương, hoặc cũng không phải để đạt được một mục đích cá nhân nào đó. Sở dĩ tôi tham gia các cuộc chạy đua vì trong khi chạy tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Khi chạy tôi cảm nhận tâm hồn mình tĩnh lặng, thấy mình được hoàn toàn tự do và nhất là tâm trí được an bình. Chạy đối với tôi cũng như Thiền, tôi an trú trong việc chạy, không bị áp lực từ ai cũng không thấy tự áp lực từ mình. Khi chạy tôi thấy hơi thở, hai chân, hông, vai, cổ và đất trời đều là một. Tôi cảm thấy mình như đang bay, bay như con diều lộng gió, tâm trí tôi bình an tuyệt diệu. Tôi hy vọng một ngày nào đó mình sẽ đạt được đến mức thinh không, khi đó, thân thể, khí lực, linh hồn tôi sẽ là một”.
Ảnh năm 1984, HTL lên đai đen đệ ngũ  đẳng.

HTL và thầy Ngô Đồng. Ảnh chụp ở Atlanta, Georgia khoảng 1990, lúc đến đó để soạn lại chương trình Cương Nhu từ đai trắng đến ngũ đẳng.

Ngày 18 tháng 8 năm 1994, Ông nghỉ làm việc ở trường đại học để có thêm thì giờ dành cho môn Cương Nhu. Thành phố Gainesville đã lấy ngày 12/8/1994 làm ngày “Dr. Ngô Đồng Day”. Đây là ngày danh dự chỉ dành riêng cho những người đã có những đóng góp lớn cho thành phố.

Ảnh năm 1996, Thầy Ngô Đồng và năm người đầu tiên lên cấp võ sư, đai đen đệ lục đẳng. Từ trái sang phải, Hoàng Thống Lập, Mike Ponzio, thầy Ngô Đồng, Mary Davis (d), John Burns, Frank Van Nessen.


Sau khi vể hưu, sức khỏe và trí nhớ của Ông không còn tốt như trước. Sau các cuộc thử nghiệm, nhóm Bác sĩ ở San Francisco, California, đã xác nhận Ông có bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ).

Cũng từ đó, sức khỏe và trí nhớ của Ông ngày một sút dần. Ngày 15 tháng 5 năm 2000, tại tư gia ở Gainesville, Florida, Ông đã ra đi thanh thản về cõi vĩnh hằng trong sự thương tiếc của mọi người.
Ông Ngô Đồng là một con người tài hoa, có một nhân cách lớn, đã đóng góp rất nhiều trong việc giáo dục con người thông qua việc dạy võ cũng như cách sống, cách nhìn đời của mình. Thế hệ trẻ hải ngoại tìm thấy nơi Ông, ngoài việc Ông là một Võ sư xuất sắc trong suy nghĩ và hành động, mà còn học tập ở nơi Ông lòng nhiệt thành, sự dũng cảm nhưng vô cùng khiêm tốn, nói khác đi là một Người Thầy theo đúng nghĩa đích thực của nó. Ông mất đi khi mới 64 tuổi là một tổn thất lớn cho nền võ thuật Cương Nhu.
PHẦN 6 - CƯƠNG NHU TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY (2015)
Năm 1998, trong kỳ Trại Huấn Luyện ở San Diego, California, các Hội Viên Cương Nhu đã bầu Võ Sư Ngô Quỳnh, người con thứ hai của Ông Ngô Đồng, làm Chưởng Môn Cương Nhu Oriental Martial Arts. Võ sư Ngô Quỳnh năm nay (2015) đúng 51 tuổi.

Võ sư Ngô Quỳnh, Chưởng môn võ phái Cương Nhu từ năm 1998


Ông là người có năng khiếu trời sinh rất cao, lại tập võ từ khi còn nhỏ, nên khi qua đến Mỹ năm 11 tuổi cho đến khi tốt nghiệp đại học, Võ Sư Ngô Quỳnh đều được xếp hạng số 1 của tiểu bang Florida cho các kỳ đấu võ tự do, cả ba môn đấu, quyền (kata) và võ khí. Võ sư Ngô Quỳnh tốt nghiệp Cử nhân Xây dựng (Bachelor of Science in Building Construction) tại đại học University of North Florida. Sau khi tốt nghiệp, ông sáng lập công ty xây dựng, rất thành công ở thành phố Jacksonville, Florida. Năm 2012, Võ sư Quỳnh giao việc điều hành công ty lại cho các em là Ngô Anh và Ngô Anh Thư để chú tâm vào việc phát triển môn phái Cương Nhu. Ông bỏ nhiều thì giờ đến thăm, giảng dạy cũng như chấm thi các trường võ Cương Nhu của các tiểu bang trên toàn nước Mỹ. Với phong cách lãnh đạo rất trung tín, chân thật và đầy yêu thương, Võ sư Chưởng Môn Ngô Quỳnh được tất cả mọi người trong và ngoài môn phái kính mến và yêu quý. Cùng với sự hổ trợ đắc lực của tất cả hội viên, Cương Nhu phát triển vững mạnh cho đến ngày hôm nay.

Trại Huấn Luyện Cương Nhu Quốc Tế Mỗi Năm (IATC – International Annual Training Camp), năm nay sẽ được tổ chức vào cuối tháng 5, 2015 ở thành phố Raleigh, North Carolina, Hoa Kỳ. Dự định sẽ có hơn 500 người đến dự từ Huế, Việt Nam, Pháp, Đức, Venezuela, và nhiều võ đường trên khắp nước Mỹ, để kỷ niệm 50 năm thành lập môn phái Cương Nhu. Các trại huấn luyện Cương Nhu không những là nơi học hỏi cái mới mà còn là dịp để gặp mặt bạn bè cũ, ôm lấy nhau, tập luyện với nhau, hàn huyên chuyện xưa nay. Cương Nhu nay đã trở thành một đại gia đình, và các trại huấn luyện là nơi họp mặt (reunion) trong tình thương mến đó.
Môn phái Cương Nhu được tạo dựng bởi một nền móng vững chắc từ ngày thành lập năm mươi năm trước, dù đã trải qua bao nhiêu biến cố và thăng trầm của đất nước vẫn vững mạnh tại quốc nội cũng như hải ngoại và với quyết tâm của các thế hệ trước cũng như tài năng của các thế hệ trẻ kế tiếp sau nầy, chắc chắn sẽ còn phát triển nhiều hơn nữa trong tương lai.

nh với bốn người con của thầy Ngô Đồng, từ trái sang Ngô Bảo, Ngô Anh, Hoàng Thống Lập, Ngô Quỳnh, Ngô Anh-Thư, năm 2015 ở North Carolina.


Người viết bài: Hoàng Thống Lập
Hiệu đính: Trương Đình Tín
Tháng 5, năm 2
Xem tiếp…

Tiến sĩ Ngô Đồng và môn phái mới CƯƠNG NHU KARATE-DO

tháng 11 08, 2018 |

TT - Có bề dày gần 50 năm phát triển, môn phái cương nhu karate-do phát tích tại Huế giờ đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới.

Màn biểu diễn võ thuật của võ sinh cương nhu karate-do - Ảnh: Đoàn Cường



Người mang môn phái này ra với thế giới chính là tổ sư Ngô Đồng (1937 - 2000).
Ông là một võ sư tài hoa, uyên bác và được một thành phố tại Mỹ dành riêng một ngày để vinh danh ông.
Phái võ của truyền thống và hiện đại
Sáng 22-8, chúng tôi may mắn được dự buổi kỷ niệm 50 năm thành lập môn phái cương nhu karate-do tại Huế. Đệ tử của môn phái là những võ sư tóc bạc trắng đến những môn sinh lúp xúp nhỏ xíu đã có mặt từ rất sớm.
Ngày hôm đó còn có đông đủ chưởng môn của các võ phái khắp tỉnh Thừa Thiên - Huế về chung vui. Trong lời mở đầu của mình, võ sư Lê Huy Chương (đại diện võ sinh khóa đầu 1965) chia sẻ rằng:
“Từ năm 1975, đất nước thống nhất, các võ sư của môn phái đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước và ở nước ngoài. Nhưng dù ở đâu đi nữa chúng tôi vẫn luôn nhớ về nguồn cội, về tổ phái trên vùng đất này”.
Sự ra đời của môn phái cương nhu karate-do là sự kết hợp giữa võ cổ truyền Việt Nam và võ thuật hiện đại. Người sáng lập môn phái là cố võ sư Ngô Đồng.
Cụ Ngô Đồng sinh năm 1937 tại Hà Nội trong một gia đình có 6 người con trai và ai cũng luyện tập võ từ nhỏ. Ngô Đồng theo học vovinam, rồi vịnh xuân của một võ sư Trung Quốc chuyên làm nghề bảo tiêu ở Vân Nam (Trung Quốc). Sau này ông tiếp tập tu luyện thêm judo, aikido, karate...
Theo những đệ tử đầu tiên của lão võ sư Ngô Đồng, lúc nhỏ ông rất nóng tính. Ông vốn rất ghét tụi du đãng ở Hà Nội lúc bấy giờ nên hay gây sự để đánh đuổi chúng.
Lúc nhỏ, khi gây sự đánh nhau với du côn, Ngô Đồng nghĩ mình là một người tốt, còn đối thủ là kẻ xấu. Vì thế đánh chúng là giúp xã hội bớt đi một tệ nạn.
Võ sư Ngô Đồng, người sáng lập môn phái cương nhu karate-do -  Ảnh: Đoàn Cường
Cơ duyên để cho ra đời cương nhu karate-do là vào năm 1956 Ngô Đồng vào định cư tại Huế. Tại đây ông được võ sư người Nhật Suzuki Choiji truyền dạy theo trường phái karate-do cổ điển của Nhật Bản.
Các đệ tử của ông kể lại ban đầu ông Ngô Đồng đã học môn võ vịnh xuân với hai người anh nhưng ông không thích lắm vì các môn võ chuyên về nhu. Còn môn karate-do thì cương mãnh, học rất mau tiến và nhất là thực dụng.
“Lúc đầu tôi chỉ hiểu công dụng của đấm đá mà thôi chứ không hiểu được điều ảo diệu của các môn võ nhu” - lời cố võ sư Ngô Đồng khi nói với các đệ tử.
Ông say mê tập karate, mỗi tuần 5 buổi, ngoài thời gian tập luyện ông còn giúp sư phụ của mình dạy võ cho các môn sinh mới. Ông trở thành một trong những võ sinh đầu tiên nhận đai đen của võ sư Suzuki Choiji.
Võ sư Ngô Đồng cũng đúc kết lại: “Một người học võ mà không có tinh thần đạo đức thì chỉ là một tên du đãng hay một kẻ sát nhân, không có lợi ích gì cho xã hội. Một người học võ mà không có tri thức thì chỉ là một vệ sĩ trên đường phố”.
Võ sư Nguyễn Văn Nhân, chưởng môn phái cương nhu karate-do tại Huế, nhớ lại: “Với kiến thức võ thuật sẵn có của 5 - 6 môn phái đã từng tập luyện, cùng với karate, cụ Ngô Đồng đã vận dụng triết học phương Đông để thành lập nên môn phái mới cương nhu karate-do tại Huế năm 1965”.
Cũng theo võ sư Nhân, môn phái cương nhu karate-do ra đời và lấy biểu tượng Thái cực âm dương làm biểu tượng cho môn phái. Nền dương đỏ, âm đen theo ý của cụ Ngô Đồng thì dương - âm cùng nhau chung sống để tồn tại, bổ trợ cho nhau.
Trong 8 điều tâm niệm, điều đầu tiên: Nguyện luôn cố gắng trau dồi võ thuật để phục vụ Tổ quốc. Trong 8 điều nội quy, điều thứ nhất là học võ để rèn luyện nhân cách và sức khỏe.
Võ đường chính được đặt tại giảng đường Trường ĐH Sư phạm Huế, về sau mở thêm chi nhánh tại ĐH Quảng Đà.
Võ sư Ngô Đồng cùng các đệ tử tại Mỹ - Ảnh: Đ.H.H.
“Mr. Ngô Đồng Day”
Cố võ sư Ngô Đồng không chỉ nổi tiếng với con đường võ thuật mà ông còn nổi danh là một nhà khoa học, một “nghệ sĩ” tài hoa và là người có công lớn đưa môn phái ra với thế giới.
Theo võ sư Nguyễn Văn Nhân, trong thời gian ở Huế, lão võ sư Ngô Đồng còn là một nhà khoa học danh tiếng, là giảng viên Trường ĐH Khoa học Huế, viện trưởng Viện Khoa học Quảng Đà (nay là ĐH Đà Nẵng). Ông còn lấy bằng tiến sĩ về côn trùng học tại ĐH Florida (Hoa Kỳ).
Võ sư Lê Minh Diệu cho biết khi ông Ngô Đồng còn sống, ông còn có tham vọng đưa môn cương nhu karate-do vào học đường, phổ biến ra các tỉnh thành khác ở miền Nam.
Vì thế, khi làm viện trưởng Viện Khoa học Quảng Đà, ông Ngô Đồng đã tổ chức ngay một phòng tập trong khuôn viên Trường lycée Pascal Đà Nẵng. “Chúng tôi gần như trưa nào cũng đi tập từ 12 giờ đến 13 giờ, sau đó thay quần áo và đi học chữ”- võ sư Diệu nhớ lại.
Còn võ sư Hoàng Thống Lập, trưởng tràng cương nhu karate-do tại Mỹ năm 1974 - 1977, cho biết thêm: đầu năm 1971, khi đang là giảng viên của ĐH Huế, với những thành tích xuất sắc trong việc giảng dạy và nghiên cứu, ông Ngô Đồng được cấp học bổng để tiếp tục hoàn thiện chương trình tiến sĩ tại Mỹ. Chỉ sau 3 năm, ông trình luận án hoàn tất bằng tiến sĩ vào tháng 6-1974.
Những ngày đầu đặt chân đến đất Mỹ, ngoài việc nghiên cứu, ông Ngô Đồng còn chuẩn bị cho việc truyền dạy cương nhu karate-do tại đây.
Và lớp võ cương nhu karate-do đầu tiên có gần 20 sinh viên được bắt đầu vào khóa mùa thu tháng 9-1971 ở Trường ĐH Florida, võ đường là nhà ăn của sinh viên. Lớp học thường bắt đầu rất trễ, khoảng 8 giờ tối sau khi sinh viên ăn tối xong, dọn dẹp bàn ghế mới có không gian tập.
Trong số những võ sinh đầu tiên có giáo sư Harvey Cromroy và Freddie Johnson (con trai của giáo sư là Allen Johnson 12 tuổi cũng theo học), hai sinh viên du học từ Huế sang, trong đó có Hoàng Thống Lập.
Điều thú vị là hai cha con giáo sư Freddie Johnson đều lên đai đen vào năm 1974. Còn ông Lập là người đầu tiên lên đai đen và được cấp bằng huyền đai đệ nhất đẳng ở hải ngoại.
Từ võ đường đầu tiên đặt tại nhà ăn, đến tháng 8-1975 cương nhu karate-do đã có đến 500 võ sinh theo học dù tháng 6-1974 võ sư Ngô Đồng đã trở lại Việt Nam.
Năm 1977, võ sư Ngô Đồng trở lại Gainesville, Florida, Hoa Kỳ tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học về côn trùng học (entomology) của Trường ĐH Florida.
Với những đóng góp của ông, thành phố nhỏ Gainesville đã lấy ngày 12-8-1994 là ngày “Mr. Ngô Đồng Day”. Theo võ sư Nguyễn Văn Nhân, đây là ngày danh dự chỉ dành riêng cho những người đã có đóng góp lớn cho thành phố Gainesville.
Võ sư Ngô Đồng mất năm 2000 ở thành phố này, nhưng các môn đồ của ông vẫn nhớ mãi câu nói bất hủ: “Nếu không có tinh thần triết học và trưởng thành, một võ sĩ chỉ là một chiến binh đường phố được đào tạo”.
ĐOÀN CƯỜNG - THÁI LỘC
Xem tiếp…

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ SƯ CHOJI SUZUKI (PHAN VĂN PHÚC)

tháng 11 07, 2018 |

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ SƯ CHOJI SUZUKI
(Phan Văn Phúc)
(10 - 6 - 1919 – 06 - 2 -1995)
SUZUCHO KARATEDO RYU.





Choji Suzuki sinh ngày 10 tháng 6 năm 1919 tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken miền bắc Nhật Bản. Ông là người con cả trong một gia đình có 4 anh em: Choji Suzuki, Minoru Suzuki, Masako Suzuki và Isao Suzuki. Suzuki là một dòng họ quyền quý danh gia ở Nhật Bản tại miền đất Matsushima. Từ năm 8 tuổi đến năm 18 tuổi, ông học Tiểu học và Trung học ở Kasagami. Trong thời gian này ông tập Nhu đạo ở trường Kasagami và năm 13 tuổi, ông được thân phụ gửi đến thọ giáo với một thiền sư dạy Karate trong vùng đó là Thầy Sigimoto Tadao, có nguồn gốc võ thuật từ Naha - Te.
Ẩn cư tu tập:
Thời gian này, ở Nhật Bản các phái võ đều bị cấm đoán. Một vị tu sĩ Phật giáo đã giúp ông ẩn cư trong một tu viện trên núi. Suốt cả ngày lẫn đêm ông phải ở trên núi để luyện tập Karatedo (Không Thủ Đạo), Kendo (Kiếm Đạo), Jujutsu (Nhu Thuật) trong những điều kiện hết sức khó khăn. Có lẽ vì thế, sau này ông chọn Thành phố Huế cổ kính và sâu lắng làm nơi ẩn cư và phát triển võ học. Kỷ niệm này ông vẫn thường hay kể lại cho những người thân và học trò của mình. Ba tháng đầu tiên tất cả những gì ông phải làm là hằng ngày ông ngồi dùng tay chụp bắt những con ruồi bâu vào chén có chứa đường hoặc nó bay trước mặt. Đó là một cách để rèn luyện lòng kiên nhẫn và sự phản xạ nhanh nhẹn của tay và mắt. Và cứ như thế, ông tập luyện cho đến khi nào cảm thấy đôi cánh tay mình như muốn rời ra. Đó cũng là một thử thách đầu tiên để xem ông có chấp nhận được hay không và ông đã vượt qua. Ba năm sau, ông được Đại sư Asano Zenkisti (sư phụ của Thầy Sigimoto Tadao) huấn luyện để trở thành một một tu sĩ. Asano cũng có mối quan hệ thân tình với thân phụ Choji Suzuki. Asano Zenkisti tiếp tục truyền dạy Karate Hệ phái Take No Uchi Ryu (Trúc Chi Nội Lưu) cho ông, đó là một trong những hệ phái Karate cổ nhất. Choji Suzuki đã luyện tập chăm chỉ trong tám năm. Mỗi buổi sáng sớm, ông đều phải chạy lên đỉnh núi để tập luyện. Mùa đông, chỉ với bộ võ phục mong manh, hằng ngày ông vẫn kiên trì ngồi trên tảng đá đầy tuyết và trầm tư tham thiền mặc cho cơ thể ông chống chọi lại với những cơn gió lạnh nhất. Đến năm 21 tuổi, ông rời tu viện sau đó được Thiền sư Kisa Buroo, trụ trì ngôi chùa Shiogama Shinza nổi tiếng tại Thành phố Shiogama, Tỉnh Miyagiken (cạnh Thành phố Tagajo Shi, Miyagiken nơi ông sinh sống) truyền thụ Karate và pháp môn Thiền tông Tào Động (Tsao-t'ung hay Soto) do Thiền sư Dogen Kigen (1200-1253) sáng lập. Ông là một trong ba cao đồ hiếm hoi của Đại sư Kisa Buroo. Thời gian này ông là sinh viên của Trường Đại học Y khoa Tokyo và vừa làm thêm ở một hãng xe ô tô ở Thủ đô Tokyo Nhật Bản. Choji Suzuki rất say mê môn võ Karate và nghiên cứu Phật học.
Phát triển võ học:
Năm ông 21 tuổi, Choji Suzuki đã đạt tới sự hiểu biết đúng đắn các kỹ thuật và triết lý của môn võ Karate thì cũng là lúc ông phải gia nhập quân đội Thiên hoàng vào năm 1940. Ông đã rời quân trường sang Mãn Châu năm 1942. Sau đó, ông sang Mã Lai năm 1943. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, một tàu chiến của Nhật Bản mà ông tham gia chiến đấu đã bị chìm trên biển Thái Bình Dương. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển với tấm ván nhỏ, ông được một tàu đánh cá cứu sống rồi tới Việt Nam năm 1944. Đến năm 1945, Nhật đầu hàng, kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai ông ở lại Việt Nam tham gia Mặt trận Việt Minh và công tác ở Liên khu 4 (Thanh Hoá). Sau đó, ông chuyển vào Liên khu 5 (Quảng Ngãi) phụ trách xưởng sản xuất dụng cụ y tế tại vùng Chợ Chùa cung cấp cho Mặt trận và dạy những bài võ Karate đầu tiên cho du kích, tự vệ. Đến năm 1952, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh Lệ (Cô Năm) - Người nữ cứu thương của Liên khu năm gốc Tam Quan - Bình Định và lấy họ tên Việt là Phan Văn Phúc. Họ có ba người con là: Phan Thị Ngọc Mỹ (Michiko Suzuki), Phan Văn Minh Đức (Tokuo Suzuki), và Phan Văn Minh Ý (Eiji Suzuki). Sau Hiệp định Geneve 1954, đến tháng 11 năm 1959 ông cùng gia đình chọn Thành phố Huế làm nơi sinh sống và phát triển võ học. Năm 1960, ông thành lập Đạo đường Suzucho Karate-Do Ryu Suzuki Dojo Noen tại số 8 - Võ Tánh (hiện nay là đường Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Huế để dạy Karatedo và Judo, khai sinh Trường phái Suzucho Karatedo. Mặc dù vậy, đến năm 1963 Đạo đường (võ đường) mới chính thức hoạt động.
Đất Thần kinh nguyên là miền đất võ - nơi phát tích, ươm mầm hội tụ của rất nhiều võ phái cổ truyền những thế kỷ trước, đặc biệt từ triều Nguyễn nhưng Karatedo vẫn có sức thuyết phục thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên tại địa phương này. Tuy nhiên, Thầy Choji Suzuki chỉ chọn năm, bảy học trò để truyền dạy võ học của mình với môn quy rất nghiêm khắc để sau này không những rèn luyện tâm trí, đạo đức qua võ thuật mà họ còn tiếp nối phát triển Trường phái Suzucho Karatedo. Mặc dù trong quá trình học tập vẫn có học trò làm Thầy không vui nhưng họ luôn được cảm hoá bằng lòng vị tha và tình yêu thương. Thầy, Cô rất thương yêu học trò, luôn tạo điều kiện cho những học trò có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Trong tập luyện Thầy rất nghiêm khắc, đầu tiên người môn sinh Karatedo phải học Lễ tiết (những ứng xử tôn trọng lễ giáo, trong Karatedo bắt đầu bằng chữ Lễ và kết thúc cũng bằng chữ Lễ). Sau đó, họ phải biết lắng nghe lời khuyên, nghiêm huấn của thầy và của những bậc trưởng thượng thuộc các trường phái khác. Để tiến bộ, môn sinh phải nỗ lực đạt được tinh thần đích thực của Không Thủ Đạo. Đối với Thầy, Không Thủ Đạo là một con đường tinh luyện bản tính con người và thanh tịnh hóa tâm thức, sự cẩu thả không cho phép trong hoàn cảnh nào. Việc tập luyện được đặt ra phải liên tục và học mỗi lần một ít nhưng không được nghỉ ngang. Mỗi ngày môn sinh phải tự giác hoàn thiện bản thân ba mặt: Trí dục, Đức dục và Thể dục, không để mờ nhạt, thoái hóa. Khi đã thăng tiến thực sự, người tập Không Thủ Đạo không được khoe khoang, hãnh tiến. Theo Thầy, thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Tự ti, tự mãn là căn bệnh làm thất bại việc luyện tập bởi Karatedo cũng là một môn nghệ thuật tức không có điểm dừng. Một đòn thế căn bản của Karatedo tập hàng vạn lần nhưng không đơn điệu mà là nâng cao đó là tuyệt kỹ. Thầy Choji Suzuki là người nhân từ và luôn khiêm tốn nhưng chưa bao giờ từ chối một cuộc thách đấu của ai. Ngày mở khóa đặc biệt để đào tạo huấn luyện viên, Thầy đã từng chỉ bỏ tính kiêu căng và lòng tự mãn cho một võ sư người nước ngoài vào võ đường ông thách đấu. Kết quả, sau sáu tháng điều trị chấn thương vì gãy hai xương sườn người này đến xin ông thụ giáo. Giờ huấn luyện Thầy Choji Suzuki thường giảng về Võ đạo, Võ sử, Võ lý, sau đó mới ứng dụng thực hành kỹ thuật. Để minh họa đối kháng tự do ông giao đấu với các học trò lớn của mình rất ngoạn mục, thường thì một mình ông đấu với ba, bốn người và một tay ông không động thủ nhưng thân pháp thì cực kì nhanh nhẹn tưởng như tương phản với ngoại hình. Thầy luôn nhắc nhở học trò trong sinh hoạt hằng ngày không được nói dối, tham lam, vô cảm và hèn nhát. Trong văn hóa ứng xử giao tiếp của Không Thủ Đạo, người môn sinh luôn luôn biết xin lỗi, cảm ơn và cúi đầu chào người đối diện trước khi bắt tay xã giao. Người môn sinh Không Thủ Đạo phải biết tự hóa giải nóng giận và lo sợ, chi tiêu phải tiết kiệm, tránh ăn uống quá độ, thừa thải, say rượu. Cấm không được hút thuốc lá, chửi thề và phóng xe vượt ẩu vì những thói hư tật xấu này làm ngăn trở hiệu năng của việc luyện tập và ảnh hưởng đến văn hóa đạo đức Karatedo. Theo Thầy, việc luyện tập luôn lấy Kỷ và Luật làm đầu. Trong Không Thủ Đạo không có giới hạn, việc học là không ngừng nhưng phải dựa trên nguyên lý khoa học, thẩm mỹ học, cơ thể học để sáng tạo và phát triển. Người thầy chỉ là người mở đường để những người khác bước chân theo, làm cho con đường rộng ra và nhiều thêm. Trong đó, “Chuyên cần tập luyện rồi một ngày kia môn sinh sẽ trực ngộ” hoặc “Học võ để biết lợi hại của võ thuật mà phòng tránh và ứng dụng nó vào văn hóa ứng xử đúng đạo làm người chứ không sử dụng vào mục đích xấu”. Cuối cùng, nhưng có lẽ là quan trọng nhất: “Các con không nên chú tâm vào chiến tích thấy được e dễ rơi vào cuồng vọng, bớt chuộng hư vinh. Mục đích của Không Thủ Đạo là phải tự chiến thắng chính mình, đó mới là sự chiến thắng thượng thừa nhất của người võ sĩ Không Thủ Đạo”.
Trong sinh hoạt đời thường, Thầy Choji Suzuki có lối sống rất bình dị, không quan tâm chuyện lợi danh. Ông chủ trương phát triển võ thuật nhưng không thương mại hóa võ thuật. Ông ăn uống thích hợp, đơn giản và cho rằng nền tảng sức khỏe nằm trong thực phẩm chúng ta dùng hằng ngày. Về trang phục, Thầy luôn tươm tất sạch sẽ, không cầu kỳ. Sở thích của Thầy là đọc sách, dã ngoại, du lịch nhiều nơi để hiểu biết mà làm giàu tri thức; thích gần gũi thiên nhiên và nghiên cứu Võ học, Phật học. Thầy cho rằng Karatedo là một con đường tu dưỡng thân tâm đưa con người đến đỉnh cao bừng sáng trong tuệ giác và đạo đức, phẩm hạnh con người không chỉ là nền tảng của một cuộc sống có ý nghĩa mà còn là bản lề của sự thành công.
Thân không bệnh, tâm không loạn, thân và tâm đều không vướng mắc đó là chân hạnh phúc của đời người. Vào thời kỳ này (năm 1960), tuy Thầy đã thành lập Đạo đường nhưng việc mở lò dạy võ phương Đông chính quyền chưa ủng hộ. Muốn phát triển trên diện rộng nên ông dạy võ ở Ty cảnh sát thời ấy. Trước tình hình đó, mãi đến ngày 01 tháng 1 năm 1963 thầy Choji Susuki mới chính thức khai giảng võ đường, truyền thụ cho một số môn đồ tâm huyết làm nòng cốt. Khoá võ sinh đầu tiên ông đã chọn lọc rất kĩ chỉ nhận một ít học trò, trong đó có ông Nguyễn Nhuận* (đã mất) là học trò đầu tiên, học trò thứ hai là ông Trần Đình Tùng, học trò thứ ba là ông Ngô Đồng (ông Đồng đã mất), thứ tư là ông Khương Công Thêm, tiếp đến là Bảo Trai, Trương Bá Lộc, Nguyễn Xuân Dũng* (ông Dũng đã mất), Hạ Quốc Huy, Vĩnh Tung, v.v… Thầy luôn nhắc nhở học trò: “Người Võ sĩ đạo với tính tự tin và nhẫn nhục là hai trong những đức tính căn bản nhưng đôi khi tuổi trẻ thường chủ quan vì hơn kém mà dễ dẫn đến hành động sai lạc”. Theo Thầy: “Dụng ý bất dụng lực”, hoặc “Tinh lực thiện dụng, tự tha cộng vinh”, các con nên “Khuất phục kẻ xấu bằng con đường hòa bình chính là mục đích của Karatedo” và “Làm giàu tri thức là làm giàu ứng xử, giúp người là giúp mình”. Hoặc “Hãy xem nhẹ phần Võ thuật để đi vào tinh túy của Võ đạo bằng sự cởi mở của tâm hồn và tinh thần phóng khoáng”, có khi Thầy cho rằng: “Trong sâu thẳm của Karatedo có hai phần: Võ thuật và Võ đạo. Võ thuật tức là thuật đánh võ, chỉ đủ để giúp con người biết võ hoặc tinh thông để trở thành nghề võ, còn Võ đạo mới đưa con người đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất, là sự giác ngộ mà người tập võ chân chính phải có hoài bão đạt đến”. Khi thiết kế phù hiệu trường phái, thầy Choji Suzuki giải thích: Biểu tượng đóa hoa sen sáu cánh ở giữa tượng trưng cho lục hòa và sự giác ngộ. Hai đóa hoa anh đào hai bên tượng trưng cho sự giản dị, tinh khiết. Nắm đấm bên trái mang ý nghĩa luôn nhắc nhở người tập phải có trái tim nhân ái và đối xử công bằng với mọi người. Ngoài ra, nắm đấm còn nhắc nhở môn sinh phải chăm chỉ rèn luyện kỹ thuật bên trái cũng thuận như bên phải. Màu đen, trắng của nắm đấm tượng trưng cho Âm - Dương. Màu đỏ của hoa sen biểu trưng cho sức sống, quyền lực, bác ái và hướng đến tương lai. Màu xanh của chữ tượng trưng cho sự chân thật, tự do, hòa hợp, hòa bình. Từ khi võ đường Suzucho Karatedo Ryu Suzuki Dojo Noen được thành lập, nó thu hút rất nhiều võ sinh, đa phần là sinh viên, học sinh bằng phương pháp truyền thống rất phong phú, khoa học và thực dụng như phương pháp Te Waza, Te Ashi Waza, Uke Waza, Ozodosa, v.v... Ngoài ra, Thầy còn truyền thụ cho những học trò tâm đắc phương pháp sử dụng binh khí Hệ thống Kobudo và kỹ thuật Trấn môn (Kumanote). Hệ thống đào tạo của Thầy cho một môn đồ lên đến Huyền đai ngoài các nội dung chương trình như về kỹ thuật căn bản (Kihon Waza), đối kháng (Kumite), quyền pháp (Kata) còn phát triển chuyên sâu sở đắc về phương pháp sơ cứu chấn thương (Kuatsu), v.v... Hệ thống quyền pháp của Suzucho Karatedo Ryu rất phong phú gồm có các bài quyền phổ thông như: TJ Kata, HJ Kata, Yoko Kata, Sankanku Kata, Ashi Waza Kata (80 thế), ngoài ra còn có các bài quyền đặc dị như Maki, Yen Kata, v.v… nổi bật là các bài Maki Sandan Kata (84 thế) và Yen Rokudan Kata (120 thế).
Triết lý:
Suzucho là từ ghép giữa họ Suzuki và tên của ông là Choji (Linh Mộc Trường Trị) hay Linh Trường. Nó cũng có nghĩa là thể hiện khát vọng lưu truyền sự nghiệp cho hậu thế như Tiếng chuông vang xa nên có tên gọi là Suzucho Karatedo (Linh Trường Không Thủ Đạo). Khi khai sinh ra Trường phái Suzucho Karatedo với kỹ thuật đặc trưng và hệ thống khoa học, thầy Choji Suzuki lấy 9 bài quyền để hệ thống quyền thức tiêu biểu gồm 6 bài Yen và 3 bài Maki. Con số 6 tượng trưng cho Lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc: cảm giác ở thân, pháp: cảnh ở tâm), Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Con số 3 tượng trưng cho những tính chất Tốt, Xấu và Vô ký tính (không tốt không xấu). Nhiều người cho rằng con số 9 rất đặc biệt vì tính chất không bao giờ thay đổi cho dù bạn nhân nó với bất kì số nào (9 x 3 = 27 và 2 + 7 = 9 hay 9 x 9 = 81 và 8 + 1 = 9, v.v…). Nó chỉ vạn vật phân tán đến cực độ có thể hoặc dùng bội số của số 9 để biểu thị số mục nhiều. Ngoài ra, nó luôn được coi như biểu trưng của quyền uy, sức mạnh và may mắn. Số 9 là sự phối hợp những yếu tố tượng trưng mang ý nghĩa cho sự toàn vẹn, viên mãn của Trời - Người - Đất. Đối với võ học, con số 9 còn mang ý nghĩa khác hàm chỉ người chuyên cần tập luyện thiền định đỉnh cao sẽ hiểu được sự an trú của cảnh giới Vô sắc.
Maki:
Maki là quyển (cuộn) hoặc quyền lực, sức mạnh. Ở đây, nó còn mang thêm một ý nghĩa khác là sức mạnh tinh thần, giúp nhận thức đúng đắn về mọi lẽ Được - Mất, Hơn - Thua, Thắng - Bại, Vinh - Nhục, Giàu - Nghèo, Khen - Chê… của thế sự, người đời. Đó là sức mạnh tự thắp sáng để chúng ta vượt qua những ghềnh thác trong phận người. Người học từ đó un tập để phát triển tuệ giác chiến thắng bản thân.
Yen:
Yen là đồng tiền, mang ý nghĩa về sự giàu có. Đồng tiền có hai mặt, tốt hay xấu là tùy cách sử dụng của mỗi người, biết thì làm cho nó có ích, không biết thì bị nó làm hại. Ở đây, Yen không những chỉ sự sung mãn về vật chất mà còn là giàu có tri thức, giàu có lòng nhân ái và hành xử công bằng. Đó là quá trình tinh luyện bản tính con người, thanh tịnh hóa tâm thức để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp cho hiện tại và mai sau. Chín bài quyền đó có phong cách thanh tao, uyển chuyển của nghệ thuật Không Thủ Đạo cổ truyền Viễn Đông. Sau này, chúng đã trở thành những bài quyền đặc dị của Trường phái Suzucho Karatedo.
Cũng từ chiếc nôi này, học trò của Thầy không những rèn luyện đầy đủ yếu tố tinh thần và thể chất của Võ sĩ đạo để phát triển Trường phái Suzucho Karatedo mà còn lan tỏa rộng khắp do ứng dụng nghệ thuật Karatedo trong đời sống. Phần lớn họ đã thành danh ở rất nhiều lãnh vực, có người trở thành nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, ca sĩ, doanh nhân, v.v… Mỗi môn sinh đều cho rằng Karatedo là con đường của cuộc sống, là một loại hình nghệ thuật cần trau dồi luyện tập suốt đời không coi trọng những Thắng - Bại, Hơn - Thua, Được - Mất, v.v… ở cõi người. Họ đề cao sự hợp tác, không ai là đối thủ mà là những người anh em giúp nhau cùng tiến bộ. Karatedo là con đường đi xuyên suốt phận người để hoàn thiện nhân cách. Nhằm bảo tồn truyền thống và kết hợp với tinh hoa của Karate quốc tế, từ thời gian trước đến nay Suzucho Karatedo Ryu đã có các hệ phái, chi phái, phân đường của học trò Thầy Choji Suzuki phát triển lấy tên Hán Việt như: Karate Minh Đạo (1966) của Võ sư Nguyễn Nhuận, Karate Cương Nhu (1966) của Võ sư Ngô Đồng, Karate Quyền Đạo Việt Nam (1982) của Võ sư Hạ Quốc Huy (Huyền đai Đệ Cửu đẳng) và các Phân đường như: Nhân Trí Dũng của Võ sư Hoàng Như Bôn (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Nghĩa Dũng của Võ sư Nguyễn Văn Dũng (Huyền đai Đệ Thất đẳng) và có nhiều Phân đường mang nhiều ý nghĩa khác như Bodankumi của Võ sư Lê Văn Thạnh (Huyền đai Đệ Cửu đẳng), Sakura của Võ sư Ngô Văn Thanh (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Choju của Võ sư Trương Đình Hùng (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Fuji của Võ sư Nguyễn Tấn Kiệt (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Shiro Uma của Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh (Huyền đai Đệ Thất đẳng) v.v… Từ khi hình thành và phát triển đến nay, Trường phái Suzucho Karatedo có 15 đời Trưởng tràng: Nguyễn Nhuận (1966), Khương Công Thêm (1967), Nguyễn Xuân Dũng (1968-1970), Hạ Quốc Huy (1970), Trần Đình Tùng (1971), Hoàng Như Bôn (1972), Nguyễn Bá Kiều (1973), Lê Văn Thạnh (1973-1986), Ngô Văn Thanh (1986-1987), Lê Văn Thạnh (1987-1989), Hoàng Như Bôn (1989-1990), Khương Công Thêm (1990-1994), Nguyễn Văn Dũng (1995-2006), Lê Văn Thạnh (2006-2012), Lê Văn Thạnh (2012-2017). Bằng nhiều hình thức phát triển Trường phái Suzucho Karatedo và nền Karatedo Việt Nam, các cao đồ của thầy Choji Suzuki đã có nhiều cống hiến góp phần quảng bá làm rạng danh Suzucho Karatedo Ryu giai đoạn đầu từ năm 1963. Đó là những tác phẩm xuất bản đầu tiên về Trường phái Suzucho Karatedo như cuốn: Huyền đai Karate (NXB Khai Trí - 1967), Linh hồn Không Thủ Đạo (1970), Kỹ thuật Nunchaku (1974) của Võ sư Nguyễn Xuân Dũng, Bài quyền Karate của Võ sư Hạ Quốc Huy (1970). Sau này, còn có nhiều tác phẩm khác như: Karate - Bài quyền từ đai trắng đến đai đen của Võ sư Nguyễn Văn Dũng (NXB Thuận Hoá - 2007), Giáo trình chuẩn hoá kỹ thuật quyền pháp Suzucho Karatedo Ryu và Giới thiệu Karatedo Thể thao của Võ sư Lê Văn Thạnh (NXB Thuận Hoá - 2009), Kỷ yếu Suzucho Karatedo Ryu - Võ đường Karatedo Bạch Mã (2012) của Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh, Karatedo - Nghệ thuật tự vệ thực dụng của Võ sư Phan Chi (NXB Thuận Hoá - 2013), Bunkai Te Waza 50 Thế của Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý) (2017); Đạo đường Choju Suzucho Karatedo một chặng đường của Võ sư Trương Đình Hùng (2017); Hành trình đến với Suzucho Karatedo Ryu của Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý) (2018) … Ngoài chiếc nôi Suzucho Karatedo Ryu ở Thành phố Huế, các võ đường của trường phái này đầu tiên ở Sài Gòn vào năm 1969 là Champion Karate, 193 - Trần Hưng Đạo và ở Gia Định là võ đường Bảo Quốc. Các võ đường này do Võ sư Nguyễn Xuân Dũng, Ngô Văn Thanh, Hà Thúc Giác, Nguyễn Chí Trí phát triển. Sau đó, còn có võ đường của Võ sư Nguyễn Thông phát triển ở Sài Gòn và Võ sư Võ Đại Vạn phát triển ở Gia Định…
Sau năm 1975, tại Thừa Thiên Huế - chiếc nôi của nền Karatedo truyền thống, có rất nhiều học trò đã tiếp nối bước thầy qua nhiều hình thức phát triển trường phái. Tại Thủ đô Hà Nội năm 1979, Suzucho Karatedo Ryu được quảng bá do Võ sư Nguyễn Thành Tự phát triển. Đến năm 1984, Võ sư Lê Văn Thạnh (Đệ Cửu đẳng Karatedo Suzucho Ryu, Đệ Ngũ đẳng Karatedo Shotokan Ryu, Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo, Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Việt Nam, Huấn luyện viên Đội tuyển Karatedo Việt Nam, Trọng tài Quốc gia, Trưởng bộ môn Karatedo Thừa Thiên Huế, Chuyên gia Karatedo Đội tuyển Lào) đã phát triển Suzucho Karatedo Ryu trên diện rộng. Ngoài ra, còn có nhiều cao đồ rất nổi tiếng đã góp phần cống hiến làm nên sự nghiệp Karatedo Việt Nam vẻ vang như Võ sư Nguyễn Văn Dũng, Võ sư Ngô Văn Thanh, Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh ở Thừa Thiên Huế, Võ sư Nguyễn Thành Tự ở Đà Nẵng, Võ sư Lê Công ở Hà Nội, Võ sư Nguyễn Tấn Kiệt ở Nha Trang, Võ sư Nguyễn Ngọc Thạo, Võ sư Đoàn Thanh Yến, Võ sư Hoàng Công Minh ở TP. Hồ Chí Minh, Võ sư Trương Đình Hùng ở Đồng Nai, Võ sư Lê Văn Thành ở Đà Lạt, v.v… đã phát triển trong và ngoài nước hàng vạn môn sinh Karatedo. Bên cạnh đó, còn có các võ sư: Khương Công Thêm, Trương Bá Lộc, Phạm Lạc, Võ Đại Vạn, Trần Định, Hoàng Như Bôn, Tôn Vĩ Đại, Trương Dẫn, Trần Văn Thuận, Nguyễn Bá Kiều, Trương Đình Dũng, Nguyễn Thông, Mai Văn Đạt, Phan Hữu Bốn, Nguyễn Văn Hóa, Trần Văn Lợi, Phan Chi, Nguyễn Đăng Lộc, Nguyễn Mạnh Thắng, Lê Văn Lộc, v.v… cũng có những đóng góp rất đáng kể. Ở nước ngoài có rất nhiều võ sư thành danh đã phát triển Trường phái Suzucho Karatedo lớn mạnh như: Trần Đình Tùng, Nguyễn Xuân Dũng, Bảo Trai, Hạ Quốc Huy, Vĩnh Tung, Nguyễn Thành Vinh, Cao Xuân Minh Tú, Ngô Văn Quý, Ngô Văn Chuân, Hồ Văn Ngọc, Phan Văn Minh Ý, Hiromitsu Ishida, Edward Nguyễn, Tony Ngô, Henry Lâm, Thắng Nguyễn, Jennifer Nguyễn, Tanya Nguyễn, Michael Phạm, Bryan Quách, v.v… Nhiều võ sư xuất sắc của Trường phái Suzucho Karatedo đã khôi phục và phát triển với qui mô rộng lớn, họ đào tạo nhiều đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài Karatedo giành nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới. Để phát triển trên diện rộng phù hợp với giai đoạn đất nước hội nhập và phát triển, Trường phái Suzucho Karatedo hòa nhập với Karatedo hiện đại và Karatedo cổ truyền Nhật Bản, đã nhanh chóng chuẩn hóa kỹ thuật hài hòa với bốn lưu phái lớn là: Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu), Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu), Shito Ryu (Mịch Đông Lưu) và Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu), khẳng định nét đặc trưng của Karatedo Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển, Trường phái Suzucho Karatedo đã tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ I vào tháng 12 năm 1994 tại TP. Hồ Chí Minh và đã qua mười lăm lần đại hội nhằm xây dựng và phát triển trường phái. Năm 2007 Trường phái Suzucho đã Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2007 - 2012) tại TP. Hồ Chí Minh, thống nhất 9 chương trình hành động cụ thể của nhiệm kỳ này với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, chủ động hội nhập và phát triển. Đại hội đã thông qua sửa đổi môn quy, quyết định hệ phái có tên gọi là Suzucho Karatedo Ryu (Linh Trường Không Thủ Đạo Phái), Tổ sư của Suzucho Karatedo Ryu là Choji Suzuki (Phan Văn Phúc), người lãnh đạo thứ hai của Suzucho Karatedo Ryu là Chưởng môn: Tokuo Suzuki (Phan Văn Minh Đức), Thư ký Chưởng môn: Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý), Trưởng tràng: Võ sư Lê Văn Thạnh. Ngày 10 tháng 6 năm 2012 Trường phái Suzucho Karatedo đã Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XV (nhiệm kỳ 2012 - 2017) tại TP. Huế. Mục tiêu của đại hội lần này là tích cực đẩy mạnh bồi dưỡng nâng cao kỹ, chiến thuật đặc trưng Suzucho Karatedo Ryu, tiếp tục đào tạo trọng tài, vận động viên xuất sắc đóng góp vào thành tích cho nền thể thao Việt Nam. Chánh Văn phòng Chưởng môn là Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý), Trưởng tràng là Võ sư Lê Văn Thạnh.
Năm 1975, Tổ sư Choji Suzuki chuyển giao công việc điều hành võ đường cho các học trò lớn của mình và vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 15 tháng 1 năm 1978 Thầy và gia đình hồi hương về Nhật Bản sống tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken, Japan. Sau 34 năm lưu lạc ông trở thành người gieo hạt giống đầu tiên và bắc nhịp cầu nối giữa Karatedo Việt Nam và Karatedo quốc tế hiện đại. Tuy ở xa, ông vẫn lãnh đạo trường phái và làm cho Suzucho Karatedo ngày càng lan tỏa mạnh mẽ. Ước vọng của ông là về thăm quê hương Việt Nam một lần nhưng ngày 06 tháng 2 năm 1995 Tổ sư Choji Suzuki đã qua đời tại quê nhà Kasagami. Cuộc đời thanh bạch giản dị, tâm hồn tĩnh lặng như mặt nước hồ mùa thu và sáng chói như trăng rằm của thầy Chưởng tổ đã để lại một dấu ấn sâu sắc bởi tài năng và đạo đức. Ngày 30 tháng 8 năm 2013 Tổ mẫu Reiko Suzuki, nhũ danh Nguyễn Thị Minh Lệ đã qua đời tại Las Vegas, Nevada, Hoa Kỳ để lại trong lòng tất cả chúng ta một sự mất mát to lớn, một nỗi niềm thương tiếc vô hạn.
Trường phái Suzucho Karatedo có độ dày hoạt động trên năm mươi năm và nhất là Chưởng Tổ Choji Suzuki sống gắn bó hơn nửa cuộc đời mình với đất nước Việt Nam - Nơi có truyền thống văn hoá và lịch sử hào hùng nên hấp thụ nền văn hóa ở đây và ông xem Việt Nam là quê hương thứ hai. Đạo lý Suzucho Karatedo Ryu dựa trên lẽ sống cao thượng, tinh thần bình đẳng, công bằng và nhân ái, giúp người là giúp mình, mang tính nhân văn. Vì thế, trường phái này tại Việt Nam cũng như trên thế giới có lực lượng môn sinh luyện tập đông đảo nhất. Hiện nay có hàng vạn người tập luyện hằng ngày với năm khu vực của sáu mươi tư tỉnh, thành. Có hàng trăm Câu lạc bộ Suzucho Karatedo Ryu tại các trường đại học trong nước, đưa Karatedo Việt Nam đứng hàng đầu khu vực. Ngoài ra, trường phái còn có rất nhiều Phân đường, Câu lạc bộ ở các quốc gia khác như Australia, Nga, Hoa Kỳ, Canada và Đông Âu, v.v… được thành lập đã phát triển lớn mạnh. Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, để các môn đồ có dịp ghé thăm dâng hương tưởng nhớ Tổ sư, Tổ mẫu. Tổ đường Trường phái Suzucho Karatedo được đặt tại: 43142 Continental Dr. Fremont CA. 94538, Hoa Kỳ. Đây là nơi thờ phụng, lưu giữ những hình ảnh, sách báo và kỷ vật lưu niệm về sự nghiệp của Tổ Sư Choji Suzuki. Để ghi nhớ tri ân Tổ sư, ngày 28 tháng 10 năm 2017, Đạo đường số 8-Võ Tánh, Tp. Huế - Chiếc nôi của Suzucho Karatedo Ryu, nay đã trở thành Nhà lưu niệm Suzucho Karatedo Việt Nam.
Thời gian qua, Karatedo Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả vẻ vang với rất nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới mang vinh quang về cho Tổ quốc. Bên cạnh đó, Suzucho Karatedo Ryu rất coi trọng việc giáo dục môn sinh phát triển dựa trên truyền thống đạo đức, lễ nghĩa, truyền thống tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, truyền thống văn hay võ giỏi. Giáo dục lối sống lành mạnh, tính trung thực, tinh thần tự chủ và những phẩm chất ứng xử rõ ràng, mạnh mẽ, dứt khoát cũng là những tiêu chí trường phái muốn môn sinh rèn luyện, học tập định hướng tương lai. Noi theo những tấm gương sáng từ Tổ sư và các vị tiền bối, các môn sinh được giáo dục lòng thương người, phẩm chất đạo đức từ tuổi hoa niên. Để từ đó, họ không sống vô cảm, biết giúp đỡ người hoạn nạn, chia sẻ người có hoàn cảnh khó khăn, không sống vị kỷ, cá nhân hẹp hòi, tránh lối sống xa hoa, buông thả, suy thoái đạo đức. Các môn sinh có ý thức bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người cô thế, chia sẻ tạo điều kiện để người khác cùng tiến bộ như mình, phát tâm thiện nguyện làm công tác xã hội và sống vì mọi người. Hằng ngày môn sinh tự giác điều chỉnh, sửa chữa hoàn thiện chính mình để chiến thắng bản thân đúng theo Võ đạo. Nếu thiếu Võ đạo, thắng hoặc bại cũng chỉ là võ biền, háo danh cầu lợi. Nâng cao tri thức, trí đạo, tâm đức, ứng xử hài hòa trong cuộc sống và ý thức tự giác rèn luyện thể lực để góp phần củng cố sức khỏe cộng đồng chứ không xem Karatedo dưới góc độ đơn thuần là thể thao. Mục đích của sự tập luyện là để có một phong cách sống, từng bước hoàn thiện nhân cách, có một trạng thái tinh thần an nhiên tự tại, chẳng muốn ai biết ngoài bản thân và cũng chẳng muốn chứng tỏ. Sự nỗ lực tự rèn luyện mọi mặt của các môn sinh rất có tác dụng trong việc đổi mới và làm cho cuộc sống của bản thân thêm có ý nghĩa, có giá trị đích thực. Tổ chức Trường phái Suzucho Karatedo hoạt động theo truyền thống của cố Chưởng môn đời thứ nhất: Choji Suzuki, được sự bảo trợ của Ủy ban Thể dục Thể thao Việt Nam. Chưởng môn bổ nhiệm Trưởng tràng thành lập Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban Chuyên môn. Chưởng môn có thể bãi miễn nếu Trưởng tràng và Ban Chấp hành làm việc không hiệu quả. Ngày nay, Suzucho Karatedo Ryu đã phát triển rộng khắp trên thế giới và được coi là một trong những trường phái mạnh của các trường phái Karate. Hằng năm môn sinh của Tổ sư Choji Suzuki lấy ngày 10 tháng 6 làm ngày truyền thống của Trường phái.
TOKUO SUZUKI (PHAN VĂN MINH ĐỨC):
Chưởng môn đời thứ II Trường phái Suzucho Karatedo là Tokuo Suzuki (Phan Văn Minh Đức) sinh ngày 23 tháng 2 năm 1957 tại Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam. Tokuo Suzuki là Trưởng nam của Tổ sư Choji Suzuki trong một gia đình có ba người con. Trưởng nữ là Michiko Suzuki (Phan Thị Ngọc Mỹ), Thứ nam là Eiji Suzuki (Phan Văn Minh Ý). Năm 1963: Ông được Tổ sư Choji Suzuki đích thân truyền dạy Karatedo và Judo tại Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo số 8, Võ Tánh, Thành phố Huế.
Từ năm 1972: Ông là Huấn luyện viên các khoá Karatedo và Judo tại Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo số 8, Võ Tánh, TP. Huế.
Ngày 15 -1-1978: Ông theo Tổ sư Choji Suzuki hồi hương về Nhật Bản sống tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken, Japan và được Tổ sư thường xuyên truyền dạy Karatedo, Judo, Y học và khoa châm cứu gia truyền.
Từ năm 1978 đến năm 1983: Ông theo học và tốt nghiệp Đại học Khoa ngoại ngữ tại Tagajo Shi, Miyagiken, Japan thuộc Bộ Văn hoá Giáo dục Nhật Bản.
Từ năm 1983 đến năm 1987: Ông tốt nghiệp Đại học Quản trị Kinh doanh ngành Thực phẩm Daimaru ở Yamagataken, Japan.
Từ năm 1986 đến năm 1996: Ông là Trưởng cửa hàng thuộc Công ty Thực phẩm Tokyu ở Sendai Shi, Miyagiken, Japan.
Năm 1996, ông là Phó Giám đốc Công ty Thực phẩm Tokyu ở Shendai Shi, Miyagiken, Japan. Năm 2002, ông là Chủ nhà hàng Đặc sản Việt Nam đầu tiên và duy nhất ở miền bắc Nhật Bản thuộc Thành phố Sendai, Tỉnh Miyagiken, Japan.
Từ năm 1995 đến nay: Võ sư Tokuo Suzuki là Chưởng môn Đời thứ II Trường phái Suzucho Karatedo.
SUZUCHO KARATE-DO RYU
5 ĐIỀU TÂM NIỆM:
1. Nguyện rèn luyện Không Thủ Đạo để có một tinh thần trong sáng trong một thân thể khoẻ mạnh.
2. Nguyện dẹp bỏ tự ái để trau dồi nghệ thuật, gặp ân oán chỉ giải chứ không kết.
3. Nguyện trấn tĩnh chịu đựng mọi thử thách, thắng không kiêu, bại không nản.
4. Nguyện luôn sống giản dị, trung thực và cao thượng.
5. Nguyện chấp hành nghiêm túc Môn quy của Hệ phái.
HỆ THỐNG ĐẲNG CẤP TRƯỜNG PHÁI SUZUCHO KARATEDO:
- KYU ( Shoka): Kyu 10 – 1 (Trắng, Xanh, Nâu).
- DAN (Shonen): Cấp trung đẳng (Từ 1 đến 4 đẳng) gồm có: Shodan, Nidan (Ho), Sandan (Daisupai), Yondan (Reushi).
- SENSEI (Hito): Cấp cao đẳng (Từ 5 đến 10 đẳng) gồm có: Godan (Reushi), Rokudan (Kyoshi), Shichidan (Kyoshi), Hachidan (Kyoshi), Kyudan (Seiko Shihan), Judan (Seiko Shihan). Chưởng môn Trường phái mới có thẩm quyền cấp bằng cho Cấp cao đẳng. Những người tập luyện theo Trường phái Suzucho Karatedo từ 3 đẳng trở lên mới được phép mở lớp giảng dạy.
NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY:
Chương trình 30 tháng tập luyện chia thành 3 cấp: Trắng, Xanh và Nâu.
- Thi lên đai xanh: Dành cho môn sinh sau 6 tháng tập luyện với thắt lưng màu trắng.
- Thi lên đai nâu: Dành cho môn sinh sau 12 tháng tập luyện với thắt lưng màu xanh.
- Thi lên đai đen: Dành cho môn sinh sau 12 tháng tập luyện với thắt lưng màu nâu.
1. Kyu: a) Kyu 10 và 9: Đai trắng 1 - 2 gạch xanh (3 tháng).
- Chào, khởi động, té an toàn, tấn pháp, kỹ thuật căn bản, những chuyển động căn bản, ngồi thiền (Phương pháp hô hấp Đan Điền).
- Lễ tiết, Võ sử, Võ lý.
b) Kyu 8 và 7: Đai trắng 3 - 4 gạch xanh (3 tháng).
- Kỹ thuật căn bản, những chuyển động căn bản. Các bài quyền: TJ, HJ, Yoko, Sankanku, Heian 1, 2, 3. Các bài Te Waza 1, 2, 3, 4, 5. Thực hành đối luyện Gohon Kihon Kumite, Sambon Kihon Kumite.
c) Kyu 6 đến Kyu 1: (12 tháng) - Quyền: Heian 4, 5, Empi, Bassai Dai. Củng cố Te Waza 1, 2, 3, 4, 5. Thực hành Ippon Kihon Kumite, Jiyu Ippon Kumite.
2. Đai xanh:
- Củng cố quyền: Heian 1, 2, 3, 4, 5.
- Củng cố: Te Waza 1, 2, 3, 4, 5.
- Ippon Kihon Kumite, Jiyu Ippon Kumite, Jiyu Kumite.
- Tìm hiểu Luật thi đấu WKF (2017)
3. Đai nâu: (12 tháng)
- Quyền: Tekki 1, Bassai Dai, Jion, Kanku Dai, Yen 1, 2, 3, 4, Maki 1, 2. - Te Waza (50 thế) - Uke Waza (50 thế) -Te Ashi Waza (50 thế)
- Kumite: Jiyu Ippon Kumite, Jiyu Kumite Koden, Jiyu Kumite Shiai (Đối kháng tự do Truyền thống và Đối kháng tự do Thể thao).
- Công phá: Shuto (4 viên gạch), Teken (3 viên gạch).
4. Đai đen: (2 năm)
- Củng cố quyền: Heian 1, 2, 3, 4, 5, Tekki 1, Bassai Dai, Kanku Dai, Empi, Yen 1, 2, 3, 4, Maki 1, 2 và Bunkai.
- Củng cố: Te Waza, Uke Waza, Te Ashi Waza (50 thế).
- Quyền: Yen 5, 6, Maki 3. - Kumite: Jiyu Kumite.
- Công phá: Shuto (5 viên gạch), Teken (4 viên gạch).
- Thực hành Phương pháp sơ cứu chấn thương (Kuatsu).
5. Đai đen Đệ Nhị đẳng: (2 năm)
- Củng cố quyền: Heian 1, 2, 3, 4, 5, Tekki 1, Bassai Dai, Kanku Dai, Empi, Jion, Jitte, Yen 1, 2, 3, 4, 5, 6, Maki 1, 2, 3 và Bunkai.
- Củng cố: Te Waza, Uke Waza, Te Ashi Waza (50 thế).
- Kumite: Jiyu Kumite
- Công phá: Shuto (6 viên gạch), Teken (5 viên gạch).
- Binh khí: Nunchaku, Bo (Kỹ thuật và Quyền).
- Thực hành phụ tá huấn luyện viên.
6. Đai đen Đệ Tam đẳng: (3 năm)
- Củng cố quyền: Tekki 1, 2, Bassai Dai, Kanku Dai, Empi, Jion, Jitte, Unsu, Hangetsu, Bassai Sho, Kanku Sho, Yen 1, 2, 3, 4, 5, 6, Maki 1, 2, 3 và Bunkai. - Kumite: Jiyu Kumite.
- Công phá: Shuto (7 viên gạch), Teken (6 viên gạch).
- Hoàn thành Phương pháp Trấn môn (Kumanote, Sosai).
- Sáng tác các bài Te Waza (30 thế) và Bunkai, Uke Waza (30 thế) và Bunkai, Te Ashi Waza (30 thế) và Bunkai.
- Binh khí: Sai, Tonfa (Kỹ thuật và Quyền).
- Củng cố: Phương pháp sơ cứu chấn thương (Kuatsu).
- Hoàn thành Phương pháp sư phạm.
- Quán triệt Luật thi đấu WKF (2017)
- Thực hành Trọng tài phụ và thực hành Trọng tài chính.
- Huấn luyện viên Trưởng một Câu lạc bộ.
7. Đai đen Đệ Tứ đẳng: (4 năm)
- Quyền: Tekki 3, Seipai, Saifa, Chinto, Tensho, Anan, Seishan, Chatanyara Kusanku, Ashi Waza Kata. Củng cố quyền: Bassai Dai, Kanku Dai, Bassai Sho, Kanku Sho, Empi, Jion, Jitte, Hangetsu, Gangaku, Unsu, Sochin, Chinte, Jiin, Seienchin, Nijushiho, Gojushiho Sho, Gojushiho Dai, Meikyo.
- Kumite: Jiyu Kumite
- Sáng tác các bài Te Waza (50 thế) và Bunkai, Uke Waza (50 thế) và Bunkai, Te Ashi Waza (50 thế) và Bunkai.
- Củng cố lý thuyết trọng tài.
- Củng cố quyền: Yen 1, 2, 3, 4, 5, 6, Maki 1, 2, 3 và Bunkai.
- Củng cố 8 bài Shitei.
- Nghiên cứu Atemi Waza - Huyệt đạo.
- Binh khí: Kama, Manriki Gusari (Kỹ thuật và Quyền).
-Tổ chức giải các cấp, tập huấn trọng tài, lập kế hoạch huấn luyện và quản lý phong trào quần chúng.
8. Đai đen Đệ Ngũ đẳng: (5 năm)
- Hệ thống chương trình từ Đệ Nhất đẳng đến Đệ Tứ đẳng.
- Củng cố 6 loại binh khí thông dụng của Hệ thống Kobudo.
-Tham gia viết bài quảng bá trường phái, hệ phái, phân đường, xuất bản một công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành Karatedo.
LỚP HỌC KARATE-DO:
Trong lớp học Karatedo truyền thống môn sinh là những người anh em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Họ có một nghi thức xã giao rất chặt chẽ như chào vào, chào ra, chỉnh sửa võ phục... Vào giờ học, võ sinh xếp hàng theo cấp của mình. Một lớp học nề nếp có tổ chức của Karatedo truyền thống, người bên ngoài sân tập nhìn vào vị trí đứng (hoặc ngồi) từ phải qua trái sẽ biết được người nhập môn trước (Senpai) và sau (Kohai) tuy họ có cùng đẳng cấp. Theo Karatedo truyền thống, người nhập môn trước một ngày hoặc một giờ cũng là Senpai. Và Senpai sẽ sẵn lòng chia sẻ những kinh nghiệm của mình cho Kohai. Kohai tiếp thu những lời khuyên từ Senpai để tiến bộ. Một Senpai hô khẩu lệnh Seiza Mokuso mọi người quỳ xuống và tĩnh tâm mười phút. Sau đó, hô Shinzen Ni Rei, tất cả huấn luyện viên và võ sinh cúi đầu hướng về chân dung tổ sư, chưởng môn và cả lớp cúi đầu chào. Trong sân tập, chân dung, tượng tổ sư, các bậc tiền bối, các bậc cao đồ đứng đầu trường phái phải được trình bày trang trọng, trang trí thẩm mỹ ở tầm cao. Tiếp đến là khẩu lệnh Sensei Ni Rei huấn luyện viên và võ sinh cúi đầu chào nhau và lớp học bắt đầu. Đội hình lớp học sẽ được Huấn luyện viên phụ trách tổ chức hợp lý trong không gian tập luyện để giúp các bạn dễ dàng di chuyển, tránh những trường hợp vận động vướng víu vào nhau. Trong thời gian tập luyện, bạn không được tùy tiện ra vào hoặc ngồi quỳ xuống nghỉ mà không xin phép huấn luyện viên. Trong sân tập Karatedo tuyệt đối không mang các loại giày dép, bít tất, không có mùi thuốc lá và rượu bia. Sau mỗi buổi tập, võ sinh không phân biệt cấp bậc phải dùng giẻ lau chùi sàn nhà. Truyền thống ý thức cộng đồng này có từ xa xưa và được duy trì trong tất cả Dojo Karatedo. Hành động này vừa vì mọi người, vừa làm cho bản ngã của chúng ta nhỏ hơn cho dù ngoài đời bạn ở vị trí nào, làm nghề gì.
Theo Võ sư PHAN CHI.
Huyền đai Đệ Lục đẳng – Uỷ viên Biên tập Văn phòng Chưởng môn — cùng với Dung Nguyen và 4 người khác.
Xem tiếp…

Bài viết với thời gian

Tổng truy cập