Huế - một miền đất võ: Trọng võ như văn

tháng 10 11, 2018 |
Nhắc đến Huế, ai cũng sẽ mặc định đó là đất văn, thành phố của thi ca nhạc vũ, của ẩm thực… Nhưng ít ai biết rằng Huế còn là miền đất võ.
Huế cũng là nơi hội tụ những tinh túy từ môn phái võ cổ truyền đến hiện đại mà “đặc sản” là võ kinh.
“Điều cốt yếu trong việc trị nước phải gồm cả văn lẫn võ, không thể thiên về một bên” - lời dụ của vua Minh Mạng về việc thành lập Võ Thánh miếu có lẽ tỏ tường quan niệm cha ông về võ thuật nay vẫn còn khắc trên bia đá tại phế tích công trình này ở cố đô Huế.
Đề cao nền võ nước nhà
Từ chùa Thiên Mụ ôm một vòng cua trên con đường ven đoạn sông Hương thơ mộng rồi thả xuôi theo con dốc ngắn là tới Võ Thánh miếu triều Nguyễn, thuộc địa phận làng An Ninh Thượng, thị xã Hương Trà.
Đây là nơi hành hương của nhiều dòng họ võ tướng, nhất là các tiến sĩ võ đã được lưu danh trên bia đá.

Huế cũng là nơi hội tụ những tinh túy từ môn phái võ cổ truyền đến hiện đại mà “đặc sản” là võ kinh.
Võ Thánh miếu nay đã không còn gì ngoài năm tấm bia đá lớn nằm trơ trọi giữa bãi cỏ rộng lớn, nơi đá bóng của thanh niên trong vùng. Đằng sau là khu đồi với tầng tầng lớp lớp mồ mả của người dân địa phương.
Trong ba tấm bia lớn, tấm ở giữa khắc bài ký võ công, hai bên là bia nêu danh những danh tướng đóng góp nhiều công trạng cho triều đình. Hai tấm bia nhỏ hơn lưu danh mười vị tiến sĩ võ ba khoa thi dưới thời Tự Đức các năm 1865, 1868 và 1869.
Sử liệu ghi rõ trên bãi đất trống này đúng 180 năm trước, vua Minh Mạng cho xây Võ Thánh miếu để thờ những bậc anh tài quân sự nhằm đề cao nền võ học nước nhà.
Công trình có quy mô gần như tương đương với khu Văn Thánh miếu ở bên cạnh, với một dãy nhà chính theo lối trùng thiềm điệp ốc rất quy mô, hai bên là tả vu - hữu vu cùng cổng vào phía trước uy nghi...
Trong bài dụ của vua Minh Mạng viết về lý do xây dựng Võ miếu: “Điều cốt yếu trong việc trị nước phải gồm cả văn lẫn võ, không thể thiên về một bên. Việc xây dựng Võ miếu là việc nên làm... Từ Đinh, Lê, Lý, Trần... đời nào cũng có người tài giỏi binh cơ mưu lược.
Huống chi trong triều đình ta từ lúc khai quốc cho đến giai đoạn trung hưng, nhiều người ra mưu giúp nước, công lao rực rỡ không kém gì xưa, cần biểu dương để khuyến khích nhân tài”.
Thời nhà Nguyễn, những người đã tòng quân đương nhiên phải thường xuyên luyện tập võ nghệ và trong năm thường có lịch trình sát hạch. Nhưng muốn có bằng cấp, họ phải được tuyển chọn để dự thi võ.
Học vị cao nhất mà người theo đời nghiệp võ là tiến sĩ. Các khoa thi tổ chức không chỉ dành cho những người trong quân ngũ mà ai cũng có thể tham dự. Vì thế triều đình nhà Nguyễn đã mở hệ thống trường đào tạo võ bị.
Vào thời Tự Đức, triều đình có lệ định: những người học thông binh thư, có tài thao lược, tinh thông súng ống, sức vóc hơn người mà còn trong dân... cho phép được tiến cử.
Cũng giai đoạn vị vua này, những người thi đỗ cử nhân võ cho bổ sung vào Võ học đường luyện tập chờ thi tiến sĩ. Còn trong khoa thi Hội, trừ những người đỗ tiến sĩ và phó bảng ra, còn lại hoặc về học lại ở Võ học đường hoặc sát hạch phân loại mà bổ sung.
Võ Thánh miếu do KTS Nguyễn Phước Thiện và cộng sự tái hiện bằng công nghệ đồ họa ba chiều.
Cũng như bên ngành văn có Quốc tử giám, ngành võ cũng có trường Anh danh, Giáo dưỡng. Những võ quan có công lao theo vua tòng chinh được thờ trong Hiền Lương Từ thì con cháu được nhận vào trường Anh danh.
Với quan văn có con không muốn học văn mà tình nguyện theo đòi nghiệp võ cũng cho nhập vào trường Anh danh này...
Võ ở trong văn
Theo nội dung khắc trên bia đá, trong số chín công thần là danh tướng đầu triều được khắc tên, có đến bốn người con của đất Huế.
Đó là các tướng quân: Phạm Hữu Tâm, Tạ Quang Cự, Mai Công Ngôn và Phạm Văn Điển. Đặc biệt, trong mười tiến sĩ võ của triều đại này, có đến ba vị quê ở đất Thừa Thiên: Nguyễn Văn Vận, Dương Viết Thiệu và Trần Văn Hiển.
Tuy nhiên, sách khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn ghi chép về mười vị tiến sĩ võ triều Nguyễn tại ba khoa thi, tất cả đều với “hành trạng về sau thế nào không rõ” hoặc “chưa khảo cứu được”...
Chúng tôi may mắn tìm ra manh mối tiến sĩ võ Dương Viết Thiệu người làng Dưỡng Mông Thượng (nay là Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ). Ông đỗ tiến sĩ võ năm 1868 lúc 37 tuổi.
Võ Thánh miếu ngày nay chỉ còn lại năm tấm bia trơ trọi giữa bãi đất trống.
Ông Dương Viết Hồng gọi tiến sĩ võ Dương Viết Thiệu là ông cố nội, chia sẻ: lúc sinh thời nhà ông Thiệu rất nghèo, bản thân ông có thân hình hộ pháp, giọng nói oang oang, dõng dạc như sấm. 17 - 18 tuổi đã cùng trai tráng trong làng lập hội đi gặt lúa thuê cho các làng khác.
Một lần nọ, khi qua làng Dạ Lê Chánh thì thanh niên làng bên thách thức gánh lúa thi. Ông lấy dao chặt một cây tre thẳng thớm, dài tới 12 mắt tre để làm đòn gánh.
Một buổi sáng ông gánh sáu gánh, mỗi gánh đến 12 bó lúa khiến thanh niên làng bên khiếp phục. Sức vóc phi phàm của ông đồn vang tận kinh thành. Ông vừa luyện võ nghiệp vừa trau dồi kinh sử, binh thư yếu lược, võ kinh yếu lược và đỗ tiến sĩ võ năm 1868.
Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng, đồng chủ biên sách khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, cho rằng các vua Nguyễn đã có những quan niệm ngộ nhận về võ.
Nhìn vào lịch sử, Võ Thánh miếu được thành lập dưới thời Minh Mạng, nhưng đến thời Tự Đức thì triều đình mới tổ chức thi tiến sĩ võ và chỉ tồn tại được ba khoa rồi bỏ.
“Có lẽ đương thời triều đình cứ nghe đến võ thuật kỳ bí như truyền thuyết, nào là những ngón nghề siêu phàm như bay qua đọt cây, đi trên nước hay làm được những điều phi phàm. Và triều đình tổ chức kỳ thi nhằm thu hút những bậc kỳ nhân có năng lực siêu phàm ấy ra để giúp nước.
Tuy nhiên, tất cả những điều ấy là lời đồn lan truyền, ảnh hưởng từ những câu chuyện trong sách chứ thực tế võ Việt hay bất cứ võ nào cũng không có như vậy. Chúng ta hiện nay mà còn quan niệm không đúng về võ như thế thì hồi xưa tin vào điều đó là dễ hiểu” - ông Dũng nhận xét.
Đồng quan điểm này, nhà văn - võ sư Nguyễn Văn Dũng (võ đường Nghĩa Dũng Karate-do, Huế) cho rằng trong võ thuật không có điều gì vượt ngoài quy luật vật lý cả, có chăng chỉ là những lời đồn đại trong dân gian, không có thật.
Lần xem lại các bài thi võ, kể cả tiến sĩ, khá đơn giản, nào là xách tạ, múa côn và múa thương, bắn súng điểu thương... Do đó, nhiều người đỗ tiến sĩ võ thường được gọi là dân võ biền, có người không biết chữ.
Bởi vậy trong dân gian còn lưu truyền nhiều câu chuyện dân văn rất coi thường dân võ. Đó cũng là lý do các kỳ thi võ về sau, triều đình còn ra đề văn cho thí sinh thi võ nhưng đề thi cũng đơn giản. Dần dần thấy các kỳ thi võ không thu nhặt được gì nên triều đình cũng ngưng tổ chức thi.
Tuy nhiên, võ thuật không phải vì vậy mà không được đề cao, bởi lẽ theo nhiều người, ở đây là “võ ở trong văn”.
Nhà nghiên cứu Huế Hồ Tấn Phan nhận xét: “Nhìn dọc theo lịch sử, những danh tướng thành danh thường từ văn, có gốc văn mà ra, điển hình như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản...”.
Đó cũng là những người đã thông kim cổ, minh tường đấu pháp, dụng binh ở tầm chiến lược chứ không chỉ trông đợi vào sức mạnh của thể lực, của cơ bắp. Vì lẽ đó mà trong văn có võ. Điều quan trọng là tinh thần thượng võ được sử dụng, được tôn vinh và được duy trì tiếp nối.
Theo Đoàn Cường - Thái Lộc/Tuổi Trẻ
Xem tiếp…

Hai hùm xám danh bất hư truyền

tháng 9 19, 2018 |
Trên đất võ Bình Định, cao nhân không ít. Thế nhưng được giang hồ phong là “hùm xám” thì chỉ có hai. Đó là võ sư Hà Trọng Sơn và võ sư Lý Xuân Hỷ.
Ở đất võ Bình Định xưa nay, ngoài những cao thủ được thừa hưởng bí truyền của dòng họ, còn có nhiều quái kiệt võ nghệ xuất chúng nhưng không xuất hiện trên đấu trường mà chỉ ngang dọc giang hồ; giai thoại về họ cũng thú vị không kém.
Trên đất võ Bình Định, cao nhân không ít. Thế nhưng được giang hồ phong là “hùm xám” thì chỉ có hai. Đó là võ sư Hà Trọng Sơn và võ sư Lý Xuân Hỷ.
Lật đầu tháo khớp
"Hùm xám miền Trung" là biệt danh của võ sư Hà Trọng Sơn, quê ở thôn An Hòa, xã Phước An (Tuy Phước, Bình Định).
Học võ từ năm lên tám, 16 tuổi thượng đài, trong con người của “Hùm xám miền Trung” thấm đầy những tuyệt chiêu của nhiều trường phái võ Việt - Tàu - Tây. Ở cái tuổi mà lũ trẻ trong làng chỉ biết đánh bi, đánh đáo thì Hà Trọng Sơn đã mê võ. Ông được người anh họ, vốn là môn đồ của các võ đường nổi tiếng ở An Vinh (Tây Sơn), An Thái (TX. An Nhơn) truyền cho.
Lớn lên nghe tiếng ông Beo, người Tàu, sống ở vùng Tây Sơn thượng đạo (An Khê), có bàn tay luyện võ như móng cọp. Vừa tò mò vừa ngưỡng mộ, ông Hà Trọng Sơn liền tìm đến bái sư.
Mới 17 tuổi, Hà Trọng Sơn đã được giới võ thuật khắp nơi biết đến từ những giải đấu lớn. Ngày ấy, một quan ba người Pháp là đồn trưởng đồn Mang Cá ở Huế một lần xem võ đài có ông Sơn thi đấu, nhận thấy ông đúng là cao thủ nên mời về Huế dạy quyền Anh.

Võ sư Hà Trọng Sơn lúc sinh thời
Trong thời gian ấy, ông Sơn đã hạ gục võ sĩ người Pháp. Tại hội thi võ thuật Đông Dương tổ chức ngày 12/10/1944 ở Tourane (Đà Nẵng), ông đấu với một võ sĩ người Pháp là Esperpaire và đạt giải vô địch.
Sau đó, tại các Hội chợ được tổ chức ở Bình Định và Đà Nẵng, chức vô địch miền Trung tiếp tục lọt vào tay ông. Ông còn có trận đánh bất phân thắng bại với cao thủ vô địch Đông Dương là Kid Demsey. Biệt danh “Hùm xám miền Trung” là được báo chí lúc ấy đặt cho.
“Thiên bẩm võ thuật, ông ấy tinh thông các trường phái võ học. Bàn tay của ông cứng và sắc như móng cọp, nhãn pháp như cú mèo, thủ pháp vững như bàn thạch... Đặc biệt, ông ấy rất giỏi quyền Anh. Võ sư Hà Trọng Sơn cao to, lúc thượng đài trông rất mạnh mẽ. Trong giai đoạn cuối đời của cố võ sư Hà, một lần chuyện phiếm, tôi được biết, dẫu ông có bị đánh gãy xương vẫn không thấy đau vì ông thường ngâm người trong chum thuốc mã tiền", lão võ sư Phi Long Vịnh kể lại.
Trận đấu hiện vẫn được truyền tụng trong giới võ thuật là trận ông đấu với võ sĩ Ku Xam Thum (người Việt, gốc Thái Lan) vào năm 1960 diễn ra tại Bồng Sơn (Hoài Nhơn, Bình Định). Theo lời kể của nhiều lão võ sư, đêm chung kết năm ấy, Ku Xam Thum đã thắng đo ván võ sĩ Đỗ Thanh Trì, khiến các võ sư địa phương ấm ức. Các võ sư kỳ cựu của làng võ miền Trung kiến nghị xin mở thêm một võ đài đặc biệt chỉ dành riêng cho Ku Xam Thum và Hà Trọng Sơn.
Vốn người mê tín nên khi đấu võ Ku Xam Thum thường ngậm lá bùa trong miệng. Sau hơn 10 phút quần thảo, bước vào hiệp quyết định, Hà Trọng Sơn sử dụng chiêu “Đề khí thiết công phục lôi hổ giáng” (gióng trảo bấu vai, lật đầu tháo khớp), một thế đánh cực độc, võ sĩ Ku Xam Thum ngã quỵ xuống sàn.
"Hùm xám miền Trung" giã từ cõi thế đã hơn 3 năm nay nhưng những giai thoại về ông vẫn mãi được truyền tụng.
Độc chiêu "mèo rửa mặt"
Nếu như “Hùm xám miền Trung” thẩm thấu nhiều trường phái võ thuật thì “Hùm xám cao nguyên”, võ sư Lý Xuân Hỷ (75 tuổi), ở phường Đập Đá, TX. An Nhơn (Bình Định) vang danh trong giới võ thuật nhờ vào những miếng đánh trong bài quyền có tên là “Miêu tẩy diện” (mèo rửa mặt).
Bài quyền này được ông tổ của dòng họ Lý có tên là Lý Thế dựa theo sự nhanh nhẹn, nhẹ nhàng của loài mèo dựng nên. Cái độc của bài quyền “Miêu tẩy diện” là ở những bộ chỏ thuộc bộ thủ (tay), ra đòn rất nhanh, gây khó dễ cho đối thủ khi cận chiến.
“Tôi theo cha là võ sư Lý Tường học võ từ năm 8 tuổi nhưng phải đến 4 năm sau cha mới dạy cho bài quyền “Miêu tẩy diện”, võ sư Lý Xuân Hỷ nói.
Khi đã tập luyện thuần thục, nhờ những miếng đánh của con mèo thấm vào máu thịt nên dẫu đã hàng trăm lần thượng đài, võ sư Lý Xuân Hỷ chỉ một lần nếm mùi thất bại, nhưng chỉ là thua điểm chứ không thua nốc ao.

Võ sư Lý Xuân Hỷ múa bài quyền “Miêu tẩy diện”
Không kể lúc đã về già, thời trai trẻ võ sư Lý Xuân Hỷ có số cân nặng rất “khiêm tốn", chỉ chừng 50 - 55 kg nhưng đối thủ mà ông chọn luôn nặng hơn mình từ 10 - 20 kg. Tuy nhiên, mỗi khi ông ra đòn “Miêu tẩy diện” thì đối phương bao giờ cũng bị hạ gục.
Năm 1990, võ sư Lý Xuân Hỷ cùng Liên đoàn Võ thuật Việt Nam sang Nga dự Festival Võ thuật cổ truyền quốc tế (16 nước tham gia). Đối thủ của ông là một võ sư Ba Lan người cao lớn, nặng hơn ông gần 10 kg.
Khi ông Hỷ đoạt HCV tại giải vô địch Cao nguyên Trung phần, báo chí lúc ấy gắn cho ông biệt danh “Hùm xám cao nguyên”. Theo võ sư Lý Xuân Hỷ, bài quyền “Miêu tẩy diện” có hơn 20 động tác dù rất tha thướt lắm, nhẹ nhàng, không gây tiếng động, đánh mà như không nhưng là một ẩn họa cực lớn với đối phương khi bị tấn công. Khi sử dụng trảo thì như mèo, như hổ; khi thì dùng ngón điểm chỉ vào tử huyệt đối phương.
Đến giờ thượng đài, thấy ông Hỷ đứng yên, chẳng thủ thế gì cả, đối thủ của ông ngạc nhiên hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ: “Sao không chuẩn bị”? Ông trả lời: “Võ thuật Việt Nam đứng như không thủ cũng là thủ rồi". Võ sư Ba Lan tức khí, xông vào đá thật mạnh, Lý Xuân Hỷ tránh đòn rồi trả miếng quật ngã đối phương xuống sàn đấu.
Lửa giận phừng phừng, đối thủ của ông ngồi dậy phóng một đòn trực diện vào mặt võ sư Lý Xuân Hỷ. Cứ như con mèo điềm tĩnh vuốt mặt, ông né đòn rồi “gắn” cái chỏ vào ngực đối phương, rồi không để đối phương hoàn hồn, ông ra tiếp đòn thứ 2 vào bụng dưới khiến võ sư Ba Lan ngã xuống sàn. Đối thủ của ông gượng đứng dậy nhưng không phải để đấu tiếp mà để quỳ xuống bái sư phụ.
Gần đây nhất, võ sư Lý Xuân Hỷ kể, vào năm 2007, một võ sĩ người Ý tìm đến đến tận nhà tìm thách đấu với võ sư Lý Xuân Hỷ. Võ sĩ này còn trẻ lại nặng hơn ông những 30 kg nhưng ông vẫn nhận lời. “Thấy tướng tá võ sĩ ấy to lớn, lại trẻ, tôi cũng gờm nhưng vì sĩ diện quốc gia nên tôi nhận lời thách đấu. Tôi giao ước chỉ đấu 30 phút, kéo dài sức già chịu không thấu”, võ sư Hỷ bộc bạch.
Vào trận, ỉ vào đôi chân dài, đối thủ liên tục dùng cước pháp tấn công võ sư Lý Xuân Hỷ nhưng không thể chạm được vào người đối phương. Đến khi đối thủ tung cước vào mặt, Lý Xuân Hỷ né đòn rồi ngồi thụp xuống quét vào chân trụ khiến đối phương đổ ập trên sàn đấu, lúc đó trận đấu mới chỉ diễn ra được vài phút.
Võ sư Lý Xuân Hỷ kể thêm, sau trận đấu, võ sĩ người Ý ngỏ ý muốn học vài đường quyền pháp. Anh ta cho biết đã ngưỡng mộ võ sư Lý Xuân Hỷ từ năm 1990, khi chứng kiến ông hạ gục võ sư người Ba Lan. Trước khi sang Việt Nam lần này, anh ta đã sang Trung Quốc học võ Thiếu Lâm 3 năm với 3 người thầy khác nhau.
VŨ ĐÌNH THUNG
Xem tiếp…

Võ Tây Sơn - Võ Bình Định

tháng 9 19, 2018 |
Bảo tồn, phục hồi và xây dựng nên phương pháp tập luyện thống nhất, hiện đại hòa nhập vào tinh thần truyền thống sẵn có không phải là điều xa vời, và điều quan trọng là chúng ta cần phân biệt rõ, loại bỏ những gì không phải là bản sắc đặc trưng cũng như những mạo nhận vì mục đích cá nhân.

Màn biểu diễn những điệu múa võ cổ truyển
VÕ TÂY SƠN
Đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về những chiến công của nhà quân sư thiên tài Quang Trung Nguyễn Huệ trong công cuộc thống nhất đất nước, đánh tan 3 tập đoàn phong kiến, phá tan 2 đạo quân xâm lược. Đã có những cuộc hội thảo cấp quốc gia tập trung đông đảo các nhà khoa học quân sự ở những trận đánh nổi tiếng: Ngọc Hồi - Đống Đa, Rạch Gầm - Xoài Mút…
Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu về võ nghệ Tây Sơn, tìm hiểu cách sử dụng vũ khí hay phương pháp tập luyện của nhà Tây Sơn, hiện nay chúng ta còn có những lúng túng.
Theo tư liệu chúng tôi có được, võ Tây Sơn được nói đến sớm nhất ở dạng văn bản là từ ông Hồ Hữu Tường, đăng trên tạp chí Phương Đông từ số 01 đến số 06, năm 1972, tác giả, với các đề mục võ Tây Sơn đã xây dựng một hệ thống tập luyện từ thấp đến cao gồm 4 bài thảo bộ cho 4 cấp đó là các bài: YÊN PHI, THẦN ĐÔNG LÃO MAI và NGỌC TRẦN, ông là một nhà chính trị sống ở miền nam trước năm 1975. Theo chúng tôi ý định của ông ta xây dựng võ phái Tây Sơn theo yêu cầu chính trị hơn là theo yêu cầu chuyên môn.
Sau khi giải phóng có khá nhiều sách báo nói về võ Tây Sơn - Bình Định, nhưng nổi bật nhất là 3 tập sách “Miền đất võ” I, II, III của một nhóm tác giả do ông Lê Thì chủ biên. Đây là một công trình nghiên cứu có một số đông góp đáng trân trọng.tuy nhiên cũng có những vấn đề chưa được thấu đáo, thiếu căn cứ khoa học, làm cho một số người am hiểu cũng như các thầy võ trong tỉnh có phản ứng và bất bình. Ví như, “Miền đất võ” tập 3 cho rằng “Tam thâu tùy hành pháp” là bài thảo roi của cụ Hồ Ngạnh nhưng không lý giải được và thật ra bài này không rõ hoặc chưa rõ xuất xứ.
Ngoài ra còn có những thầy võ vốn sinh ra và lớn lên, tập luyện trên vùng đất võ nhưng họ xáo xào rồi tự nhận môn phái này, môn phái nọ để rồi những trang viết của họ chẳng đem lại giá trị đích thực cho những yêu cầu bức thiết mà dân làng võ mong muốn.
VÕ BÌNH ĐỊNH
Theo tư liệu chúng tôi có được, tập sách võ của ông Trương Thanh Đăng với đề mục “Võ cổ truyền Bình Định”, xuất bản vào năm 1968 được xem là một trong những văn bản nghiên cứu về võ Bình Định sớm nhất, ông Trương Thanh Đăng vốn người miền nam, học võ ở các ông cử võ vùng Bình Định rồi học võ của các thầy võ người Hoa nổi tiếng. ông đã tổng hợp rồi chế ra “Bát bộ thoát chiến quyền” và nâng cao lên bằng những bài thảo võ như: THIỀN SƯ, THẦN ĐÔNG, sau năm 1972, học trò của ông Trương Thanh Đăng là Phan Chân Thanh có tái bản tập sách này.
“Bát bộ thoát chiến quyền” là một phương pháp tập luyện do ông Trương Thanh Đăng tổng hợp từ kiến thức võ nghệ vùng Bình Định và vốn liếng học được của các vị thầy võ người Hoa, nên không thể cho rằng đó là phương pháp tập luyện võ truyền chính thống được!
Năm 1971, ông Diệp Bảo Sanh có xuất bản cuốn sách “Võ thuật Bình Định chân truyền” ông Diệp Bảo Sanh vốn quê An Thái, xã Nhơn Phúc, An Nhơn, là con ông Diệp Tường Phát, một hào phú gốc Hoa rất đam mê võ nghệ, ông Phát năm 13 tuổi được cha mẹ cho sang quận Chiêu An tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa học võ, sau đó còn sang Hồng Kông học tiếp rồi về vùng An Thái, học hỏi rút tỉa thêm tinh hoa và tự xưng là phái võ An Thái, Bình Định.
Theo cuốn sách đã dẫn, CHỈ PHÁP gồm có 10 CHỈ PHÁP như: Cương đao chỉ, Xà tín chỉ, Long tu chỉ… CƯỚC PHÁP  gồm 9 loại tấn, THỦ PHÁP gồm có 16 cử động gọi là Liên hoàn thập lục thủ.
Ông Diệp Tường Phát là một người mang 2 dòng máu Hoa – Việt ông đã học võ ở Trung Hoa, rút tỉa kinh nghiệm ở vùng ta rồi sáng lập ra phái võ. Ta có thể cho rằng phái võ của ông Phát (còn gọi là ông TÀU SÁU) không chính thống võ cổ truyền Bình Định chứ không thể cho  rằng phái võ do ông sáng lập và võ Tàu, vì qua thực tế chúng ta vẫn thấy người dân Bình Định, nhất là vùng An Thái chấp nhận và tập luyện theo phái võ ông. Tuy nhiên, việc xuất bản cuốn sách và những va chạm của Hội võ thuật Bình Định và con ông Phát là Diệp Bảo Sanh năm 1972 là những tranh chấp mang tính cục bộ và thời sự bấy giờ. Theo chúng tôi, qua những mẫu chuyện của những người cùng thời ông TÀU SÁU, phải công nhận ông là người có tinh thần thượng võ khá cao, có kiến thức võ nghệ, uyên thâm và người dân Bình Định vẫn lưu giữ hình ảnh tốt đẹp về ông cũng như phương pháp tập luyện do ông xây dựng nên.
Phân biệt để thống nhất
Về võ Tây Sơn – võ Bình Định, chúng tôi nghĩ phải nghiêm túc cùng nhau bàn bạc vì tư liệu thành văn đã có nhưng quá mới mẻ và không ít võ đoán. Cần phân biệt sự khác nhau và giống nhau của võ Tây Sơn, võ Bình Định vì trong giai đoạn ở vài thế kỷ trước, lịch sử có những đảo lộn, những quan điểm đối nghịch nhau, ngay cả hiện nay, chúng ta vẫn thường cho rằng võ Bình Định là võ Tây Sơn, thiết nghĩ cần phân biệt rõ để chọn lấy cái tinh túy của từng bộ môn rồi đi đến thống nhất, đó mới là điều cần thiết.
Từ những suy nghĩ trên, qua điều tra điền dã ở nhiều nơi trong tỉnh nhất là cùng Tây Sơn hạ, thu nhận được nhiều thông tin cụ thể, phối hợp với  những tài liệu thành văn, chúng tôi thấy có những vấn đề cần làm rõ.
Ví dụ: Hầu như tất cả các thầy võ ở Bình Định đều cho rằng bài thảo bộ NGỌC TRÂN là bài thảo mực thước nhất, hoàn chỉnh nhất trong hệ thống tập luyện võ nghệ vùng Bình Định. Về chuyên môn chúng tôi đồng ý. Nhưng về lịch sử, tại sao chúng ta vừa cho rằng “đó là bài thảo thi của nhà Nguyễn” vừa lại khẳng định “Đó là bài võ thuộc dòng Tây Sơn” sư võ đoán, hời hợt trong nghiên cứu là không thể chấp nhận được.
Nhiều người cho rằng nhà Tây Sơn có phát sinh ra một dòng võ. Theo tôi việc phong trào Tây Sơn có phát sinh hay không phát sinh ra một dòng võ không hề giảm đi giá trị mà nhà Tây Sơn đã cống hiến cho dân tộc, cho đất nước. chúng ta cũng đừng lợi dụng uy tín của nhà Tây Sơn để nêu lên những điều chưa được nghiên cứu rõ rang, chính xác hoặc xác định một cách vội vã, phi khoa học, làm thế là có tội với tiên nhân và cả với lớp người sau. phong trào nông dân ở thế kỷ 18 do anh em nhà Tây Sơn lãnh đạo là một phong trào rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử lớn, bởi vậy, dù muốn tìm hiểu một góc độ nào cũng cần có những kiến thức và hiểu biết cơ bản về dân tọc học, xã hội học, quân sự học… trong giai đoạn lịch sử đó, được như vậy chúng ta mới giải quyết vấn đề xác đáng, cụ thể hơn.
Dưới thời Tây Sơn, chính sách “cải ấp lập đôi” khá phổ biến ở vùng Bình Định và ăn sâu, bén rễ vào từng cộng đồng xã hội, nơi đã sản sinh ra nó. Từ đó hình thành nên những LÀNG VÕ mà qua thời gian, qua bao biến động lịch sử, LÀNG VÕ cứ tồn tại và giữ được cái hào hùng của võ trong sinh hoạt các cộng đồng. dù phương tiện tập luyện là võ Tàu, võ ta hay võ Tây cũng chỉ do yếu tố lịch sử, còn vùng đất đầy sinh khí này vẫn tồn tại dáng dấp của nhà Tây Sơn, vị lãnh tụ thiên tài Quang Trung - Nguyễn Huệ đã biết vận dụng sức bền vững của làng xóm Việt Nam kết hợp với tinh thần thượng võ của một vùng đất và chính sách “Cải ấp lập đội” là động lực cơ bản làm phát sinh và tồn tại những làng võ bất diệt trên đất Tây Sơn - Bình Định.
Bảo tồn, phục hồi và xây dựng nên phương pháp tập luyện thống nhất, hiện đại hòa nhập vào tinh thần truyền thống sẵn có, theo chúng tôi, không phải là điều xa vời, và điều quan trọng là chúng ta cần phân biệt rõ, loại bỏ những gì không phải là bản sắc đặc trưng cũng như những mạo nhận vì mục đích cá nhân.
Nguyễn Vĩnh Hảo
nguyên Huấn luyện viên võ thuật đội tuyển quốc gia SEAGAME 19 (1997)
nguyên Ủy viên ban chấp hành liên đoàn võ cổ truyền Bình Định
Xem tiếp…

6 KHUÔN MẶT VÕ LÂM VIỆT NAM

tháng 9 08, 2018 |
Giới thiệu cuốn sách

6 KHUÔN MẶT VÕ LÂM VIỆT NAM


Link tải sách: 6 Khuôn Mặt Võ Lâm Việt Nam
Nguồn: Nguyễn Văn Hoa
Xem tiếp…

BÌNH ĐỊNH GIA - CHƯỞNG MÔN ĐỜI THỨ 4 VÕ SƯ TRẦN HƯNG QUANG

tháng 8 30, 2018 |

TIỂU SỬ CHƯỞNG MÔN ĐỜI THỨ 4 - VÕ SƯ TRẦN HƯNG QUANG




        Cố võ sư, nghệ sỹ ưu tú Trần Hưng Quang sinh ngày 15-10-1928 tại xã Cát Trinh, Phù Cát, Bình Định. Cha của ông là võ sư Trần Y đồng thời là một nghệ sĩ tuồng danh tiếng thời bấy giờ. Trần Hưng Quang được cha truyền thụ võ công và nghệ thuật hát tuồng từ khi lên 10 tuổi.
Với tư chất thông minh, lanh lẹ, vào năm 13 tuổi cậu bé Trần Hưng Quang đã cơ bản lĩnh hội được tinh tuý của phái võ gia truyền. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình, nhưng tiếng tăm về “cậu bé” anh hùng ở Phù Cát vẫn ngày một vang xa. Mến mộ tài năng của Ông, nhiều lần quan phủ đã cho triệu ông đến để thi triển quyền cước.
Năm Trần Hưng Quang 14 tuổi, mong muốn cho con trai mình mở rộng thêm kiến thức võ học, ông Trần Y đã cho Trần Hưng Quang tiếp tục theo học các võ sư nổi tiếng ở Bình Định.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, chàng thanh niên Trần Hưng Quang  lại hăng hái tham gia cách mạng và được kết nạp Đảng cộng sản năm 1950.
Năm 1954 Ông tập kết ra Bắc, công tác trong ngành công an, sau đó chuyển sang hoạt động nghệ thuật.


Năm 1955, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Sơn, quê ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội). Hai ông bà sinh được năm người con, ba trai, hai gái.

Ông tốt nghiệp trung cấp đạo diễn ở Trường Sân khấu dân tộc, từng là Đảng ủy viên, Đoàn trưởng đoàn Tuồng Liên khu V (nay là Nhà hát tuồng Đào Tấn).  Năm 1969, Ông Trần Hưng Quang được Bộ văn hóa và Ban thống nhất cử vào chiến trường Liên khu V. Năm 1975, sau khi thống nhất đát nước, Ông về Bình Định công tác và tham gia xây dựng Đoàn tuồng tỉnh Nghĩa Bình.

Với lợi thế về võ thuật và máu nghề truyền thống gia đình, nghệ sĩ Trần Hưng Quang rất thành công với những vai kép võ tuồng như Lưu Khánh, Mạnh Lương, Tiết Cương, Châu Thương... những vai phản diện như Trần Lộng (vở Trần Bình Trọng),  Lý Thông (vở Thạch Sanh) và đặc biệt là vai Ốc trong vở tuồng Nghêu-Sò-Ốc- Hến. Ghi nhận công lao và đóng góp của Ông cho nghệ thuật tuồng, năm 1988 Nhà nước đã phong tặng Ông danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.

Năm 1982, sau khi nghỉ hưu, Nghệ sĩ Trần Hưng Quang trở lại Hà Nội sinh sống cùng gia đình tại nhà số 52b, ngõ 2, Ngõ chợ Khâm Thiên. Vào năm 1984 Võ sư Trần Hưng Quang bắt đầu dạy võ cho một vài đệ tử là bạn thân của Trần Hưng Hiệp, trong số đó có Đinh Quang Trung - người sau này trở thành một trong số đại đệ tử của môn phái.

Năm 1985, nghệ sĩ ưu tú Trần Hưng Quang được nhà nước cấp một căn hộ tại  khu tập thể Thanh  Xuân Bắc. Ông chuyển gia đình về sống tại đây và mở “lò võ” tại Trường PTCS Việt Nam-Angieri. Vào giai đoạn này, phong trào võ thuật ở Hà Nội bắt đầu phát triển.
Năm 2014, lão võ sư  - nghệ sĩ ưu tú Trần Hưng Quang qua đời để lại sự tiếc nuối sâu sắc cho hàng vạn võ sinh môn phái Bình Định Gia nói riêng cũng như  làng võ cổ truyền Việt nam nói riêng.

Xem tiếp…

KỲ NHÂN LÀNG VÕ KỲ 16: QUYỀN SƯ TÂY SƠN BẮC PHÁI - ĐẠI LÃO VÕ SƯ XUÂN BÌNH

tháng 8 25, 2018 |
Từ thời trai trẻ đến nay, quyền sư Nguyễn Xuân Bình không hút thuốc lá, cũng chẳng đụng đến rượu bia, mà suốt ngày chỉ làm bạn với bao cát, tạ sắt, côn, kiếm và hít đất. Có lẽ nhờ vậy mà đến nay dù đã 97 tuổi, lão võ sư vẫn minh mẫn, hoạt bát, ít khi ốm đau bệnh tật.
Lão võ sư Nguyễn Xuân Bình sinh năm 1917 tại thôn Phú Hậu, H.Phù Cát, tỉnh Bình Định, sớm được ông ngoại là cụ Phó Kính truyền thụ võ Thiếu lâm. Khi lớn lên thì được làm đệ tử nhị vị sư phụ Sĩ Ba và Đoàn Phong, hai quyền sư nổi tiếng đất võ Bình Định. Đến năm 22 tuổi, Xuân Bình tình cờ hội ngộ và được cao thủ Phước Kiến là Tiêu Bảo Chấn dốc lòng chân truyền tinh hoa Thiếu lâm bắc phái.
Năm 1944, ông bắt đầu dạy võ thuật cho trai tráng trong thôn. Tuy nhiên, chỉ được hơn một năm, chàng nông dân bỏ ruộng đồng nhà cửa phiêu bạt giang hồ. Trên đường hành hiệp đã đem vốn sở học truyền bá cho lớp hậu bối kháng Tây đánh Nhật, sau đó mở 6 võ đường ở Nha Trang (1949), Phan Rang-Tháp Chàm (1950), Đơn Dương (1955), Buôn Ma Thuột (1957), Biên Hòa (1959) và Sài Gòn (1960). Năm 1964, được đồng đạo Nguyễn Son tiến cử, Xuân Bình gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật VN đào tạo võ sĩ.
Lão quyền sư Xuân Bình trầm ngâm: “Sự nghiệp thi đấu của tôi khoảng 13 trận, trong đó có những trận nhớ đời như hòa “Con cáo già” Huỳnh Tiền tại Phan Rang (1946), thắng Châu Long ở Hoài Nhơn, Bình Định (1947), thắng K.O Cao Thành Sang tại Ninh Hòa (1948), thắng “Gấu đen miền Trung” Trọng Đãi ở Phú Khánh (1949), thắng “Hùm xám Khánh Hòa” Trịnh Thiếu Anh (1950) tại Nha Trang, hòa Lư Hòa Phát tại Hội chợ Thị Nghè (1951). Sau trận hòa “vua boxing” Kid Dempsey tại sân Tinh Võ (1951) tôi giã từ sàn đấu! Trong cuộc đời tôi có hai kỷ niệm khó quên. Đó là trận hòa “tượng đài” Huỳnh Tiền tại rạp hát Thanh Bình (Phan Rang), anh Tiền đánh rất mưu mẹo, khôn khéo, đôi chân di chuyển linh hoạt, uyển chuyển, ra đòn cực nhanh và chuẩn xác, còi dứt trận vang lên, tôi vẫn nghĩ rằng mình thua điểm, không ngờ trọng tài Nguyễn Trung tuyên bố hòa. Và một kỷ niệm đau lòng là vào tháng 2.1975, tôi đứng ra tổ chức thi đấu võ đài tại Biên Hòa, ngay đêm đầu học trò tôi là Trần Quyền bị dính cú đấm dập hộp sọ, hôn mê rồi qua đời khiến tôi vô cùng đau khổ day dứt suốt mấy năm trời”.
Năm 1964, quyền sư Xuân Bình sáng lập “Bắc phái Tây Sơn Xuân Bình võ thuật đạo” (73 Hàm Nghi, Biên Hòa) cho ra “lò” nhiều tay đấm gạo cội như Xuân Nghĩa (52 kg, lực sĩ quốc gia 1971), Xuân Phước (vô địch quyền tự do 1973), Xuân Thịnh (hạ K.O võ sĩ Hồng Kông Ngũ Chí Cường sau 15 giây nhập cuộc tại sân Tinh Võ), Xuân Liễu (nữ võ sĩ “độc cô cầu bại” hạng cân 48 kg), Xuân Cúc (con gái của quyền sư Xuân Bình)… được Tổng cuộc Quyền thuật VN cấp bằng khen do thành tích đào tạo nhiều tay đấm giỏi cho làng võ miền Nam.
Bắc phái Tây Sơn Xuân Bình võ thuật đạo được kết tinh từ võ Bình Định và Thiếu lâm bắc phái kết hợp thủ pháp môn quyền anh. Do đó, đòn thế vô cùng ảo diệu, 3 bài trấn môn của võ phái là Ngũ Hổ Bình Tây, Miêu Tẩy Diện, Tứ Trụ Long Môn cùng nhiều bài binh khí nổi tiếng của Bình Định như Tấn Nhứt, Thái Sơn và Bạch Long Kiếm. Quyền sư Xuân Bình chọn ngày Quang Trung đại thắng quân Thanh (mồng 5 tháng 5) làm ngày kỷ niệm võ phái. Năm 1971, ông giữ chức Phó đoàn quyền thuật VN tranh tài quốc tế tại Nhà hát Olympic (Phnom Penh, Campuchia), các đệ tử của ông là Xuân Thơm, Xuân Thịnh đều toàn thắng.
Sau ngày đất nước thống nhất, vị chưởng môn Bắc phái Tây Sơn Xuân Bình võ thuật đạo cùng gia đình lập nghiệp tại Thiện An, xã Buôn Hồ, H.Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk. Ông cùng các con Xuân Sơn và Xuân Hà tiếp tục đào tạo những tài năng võ thuật cho tỉnh nhà. Ông được Ủy ban TDTT trao tặng huy chương “Vì sự nghiệp TDTT” và vẫn tiếp tục dành hết thời gian tâm sức ghi chép lại những tinh hoa của võ phái nhằm truyền lại cho lớp hậu bối vùng sơn cước.
Lão võ sư Xuân Bình: Võ đạo dạy làm người
Trong giới võ thuật Bắc - Nam, lão võ sư Xuân Bình được coi là kho tàng sống về võ cổ truyền Bình Định. Ở độ tuổi ngót nghét 100, tuy sức lực đã mang dáng dấp của thời gian, nhưng lão võ sư vẫn rất phong độ, mọi hành động, cử chỉ vẫn mang khí lực của con nhà võ.
 
Ngày 22-9-2013, tại Võ đường Bắc phái Tây Sơn Xuân Bình Võ thuật đạo (Thiện An, Buôn Hồ, huyện Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk), lão võ sư Xuân Bình, chưởng môn nhân đời thứ nhất, đã tổ chức lễ giao quyền kế nhiệm chức chưởng môn đời thứ hai cho con trai là võ sư Nguyễn Xuân Sơn.
Vừa luyện võ và làm ruộng đến năm 26 tuổi thì Xuân Bình mới đem sở đắc võ thuật của mình ra thi thố để ấn chứng công phu. Ông tham gia thượng đài các môn quyền tự do và quyền Anh. Nhiều trận đấu được giới võ lâm tâm đắc như trận thắng Trọng Đãi, biệt danh "Gấu đen miền Trung". Nói về Trọng Đãi, người ta không thể quên võ sĩ này từng cùng hai võ sĩ Huỳnh Tiền và Thanh Xuân thủ lôi đài ở sân vận động Nha Trang gần cả tuần lễ mà không ai hạ nổi ở Ninh Hòa. Hay trận ông thắng Châu Long ở Hoài Nhơn; thắng Cao Thành Sang ở Ninh Hòa; hòa Huỳnh Tiền ở Phan Rang; hòa với Kid Demsey ở Tuy Hòa…Lão võ sư Xuân Bình tên thật là Nguyễn Xuân Bình, sinh ngày 10-8-1917 tại thôn Phú Hậu, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thuộc dòng dõi con nhà võ, do cha mẹ mất sớm nên Xuân Bình được ông ngoại là cụ Phó Kính đưa về nuôi dưỡng và được học võ  từ năm 14 tuổi. Năm 18 tuổi thì theo thầy Cửu Xưa học võ Kinh - dòng võ chính thống của triều đình, rồi luyện võ Tây Sơn với võ sư Đoàn Phong, học Thiếu Lâm bắc phái với thầy Bảo Hiếu…
Trao giấy giao quyền kế nhiệm chưởng môn cho võ sư Xuân Sơn.
Từ năm 1943, Xuân Bình bắt đầu mở võ đường dạy ở quê hương và các tỉnh, thành: Nha Trang, Phan Rang, Buôn Mê Thuột, Sài Gòn, Biên Hòa. Nhiều võ sĩ nổi tiếng trong làng đấm Việt Nam như Xuân Thanh, Xuân Hùng, Xuân Phước, Xuân Thịnh, Xuân Liễu, Xuân Nghĩa… đều là học trò của thầy Xuân Bình.
"Bốn vì sao sáng" trên bầu trời võ thuật
Năm 1960, võ sư Xuân Bình gia nhập Tổng cuộc quyền thuật miền Nam Việt Nam. Năm 1969, ông cùng nhóm "Thập nhất thái bảo" gồm các võ sư chưởng môn như Mai Văn Phát, Đặng Vân Anh, Từ Thiện, Lê Văn Kiển… thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam với mục đích gom góp những tinh hoa võ học của mảnh đất Bình Định nói riêng và của nước Việt Nam nói chung. Từ đây, với những cống hiến to lớn cho võ thuật, Xuân Bình trở thành một trong "Tứ tú" (Bốn vì sao sáng) được võ lâm suy tôn.
Đông đảo võ sư và các ban ngành đến dự lễ.
Nhóm "Tứ tú" gồm Từ Thiện (Hồ Văn Lành), Xuân Bình, Trần Xil, Lý Huỳnh (Lý Kim Tuyền) khi ấy từng được Tổng nha Thanh niên (thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thành niên dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa - VNCH) tặng bằng Danh dự về thành tích "Đào tạo nhiều võ sĩ ưu tú cho làng đấm Việt Nam".
Nhóm bốn người này được coi là truyền nhân trong việc phát huy truyền thống võ thuật Việt Nam của các tiền bối "Tam Nhật", nghĩa là "ba ông mặt trời" của làng võ Việt, bao gồm: Hàn Bái, Ba Cát, Bảy Mùa và "Tam Nguyệt", nghĩa là 3 mặt trăng, gồm Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kê, Vũ Bá Oai.
Trong "Tứ tú" thì võ sư Từ Thiện là cao tuổi nhất (1914 - 2005). Ông tên thật là Hồ Văn Lành là nhân vật nổi tiếng của võ phái Tân Khánh Bà Trà, từng được mời xuống Sài Gòn dạy võ ngay tại khu vực Cầu Muối, mảnh đất từng nổi tiếng với nhiều tay anh chị giang hồ từ những năm 50 và đã từng được đưa vào điện ảnh sau giải phóng với nhân vật "Bảy Cầu Muối". Ông đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc như Từ Thanh Nghĩa, Từ Y Văn, Từ Trung Tín, Hồ Ngọc Thọ, Từ Thanh Tòng, Từ Duy Tuấn, Hồ Thanh Phượng, Từ Hoàng Minh, Từ Hoàng Út từng đoạt nhiều huy chương vàng, bạc trong các giải vô địch võ thuật trong và ngoài nước những năm 1969-1974.
Trần Xil là võ sư người Việt gốc Khmer, từng lập võ đường Trần Xil trong Lữ đoàn Nhảy dù của Quân lực VNCH. Ông đã đào tạo được nhiều võ sĩ có tiếng như Trần Mạnh Hiền, Trần Bạch Hoa...
Còn Lý Huỳnh có tên thật là Lý Kim Tuyền, nổi tiếng với chiêu "Liên hoàn bát cước" (Tung người đá 8 cước trên không) và từng thách đấu công khai với ngôi sao huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long. Từ năm 1957 đến 1964, Lý Huỳnh thượng đài 6 trận về quyền Anh và thắng 3 trận, trong đó có trận đấm ngã đối thủ Lyauté Francoise, võ sĩ da đen vô địch quân đội Pháp và các trận thắng võ sĩ nổi tiếng Anh Thạch, Mạch Trung Phương - vô địch 6 tỉnh miền Trung. Lý Huỳnh cũng đào tạo nhiều võ sĩ giỏi như: Lý Huỳnh Cường, Lý Huỳnh Yến
Từ năm 1972 đến năm 1989, Lý Huỳnh tham gia đóng các bộ phim có liên quan đến võ thuật và trở thành người Việt đầu tiên đưa võ vào điện ảnh Việt Nam thành công với các bộ phim “Long hổ sát đấu”, “Quái nữ Việt Quyền Đạo”, “Báu kiếm rửa hận thù”, “Hải vụ 709”…
Trong sự nghiệp thượng đài của mình, võ sư Xuân Bình nhớ nhất là trận gặp võ sĩ Huỳnh Tiền ở Phan Rang vào năm 1952. Huỳnh Tiền là tay đấm danh trấn giang hồ, là sư phụ của võ sư - nghệ sĩ Lý Huỳnh. Huỳnh Tiền hầu như không có đối thủ ở môn võ tự do trong những năm đầu thập niên 50. Xong trận đấu, tuy được chấm hòa, song với tinh thần thượng võ, võ sư Xuân Bình vẫn nghĩ là mình thua.
Năm 1971, Xuân Bình được cử làm Phó trưởng đoàn Võ sĩ Việt Nam tham gia Võ đài quốc tế tại Khu thể thao liên hợp Olympic ở thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia). Lần ấy, các đồ đệ của ông như Xuân Thắm, Xuân Thịnh đã toàn thắng.
Lão võ sư tiết lộ chút bí quyết đã giúp ông bất bại trên sàn đài, đó là võ thuật đạo của ông là Bắc phái Tây Sơn. Sở trường của môn phái là tránh đòn và phản công. Riêng ông, ngoài việc di chuyển linh hoạt, ông có thế mạnh về bộ tay. Bộ tay của ông có thể buộc đối thủ rơi vào thế bị động. Khi họ lộ sơ hở, hoặc có dấu hiệu xuống sức, ông mới bắt đầu tấn công và thường giành thắng lợi.
Khai môn lập phái
Năm 1964, trên cơ sở vốn liếng võ thuật tiếp thu từ nhiều nguồn khác nhau cộng với kinh nghiệm huấn luyện, thi đấu nhiều năm, võ sư Xuân Bình đã hệ thống hóa lại các bài bản, kỹ thuật và chính thức sáng lập môn phái Bắc phái Tây Sơn Xuân Bình Võ thuật đạo tại thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.


Cùng các võ sư sáng lập Tổng hội Võ thuật Việt Nam năm 1969.

Bắc phái Tây Sơn Võ thuật đạo chủ trương rèn luyện cho môn sinh có tâm tính hòa nhã, sống lễ nghĩa và nhân hậu, khiêm tốn học hỏi điều hay lẽ phải. Về kỹ thuật, môn sinh được luyện tập: Thân, bộ, thủ, cước và quyền pháp. Võ sư cho hay: thủ pháp là bài toán cộng, bộ pháp là bài toán trừ, cước pháp là bài toán nhân và quyền pháp là bài toán đố.
Một số bài quyền trấn môn của môn phái là Tứ trụ long môn, Miêu tẩy diện, Ngũ hổ bình Tây… và những bài roi (gậy) nổi tiếng của vùng Bình Định. Ngũ hổ bình Tây là bài thảo độc đáo của môn phái. Môn sinh luyện xong phần phân thế của bài này là có thể thượng đài. Những tuyệt chiêu mà các môn sinh thường sử dụng khi thượng đài rất hiệu quả là đòn hổ giáng (chỏ lật), bàng long cước… Năm 1973, tại sân Tinh Võ, quận 5, Sài Gòn, võ sĩ Xuân Thịnh đã hạ đo ván (knock out) võ sĩ Ngũ Chí Cường của Hồng Công bằng cú bàng long cước rất nhanh, mạnh và chính xác khi trận đấu mới bắt đầu được 15 giây.
Ngày giỗ Tổ môn phái Tây Sơn Võ thuật đạo cũng là ngày chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa (mùng 5 tháng Giêng âm lịch). Lý giải điều này, lão võ sư cho biết sở dĩ chọn ngày chiến thắng Đống Đa làm ngày kỷ niệm môn phái chào đời nhằm ghi nhớ công ơn to lớn của người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ. Hoàng đế Quang Trung xưa nay cũng được coi là Thánh tổ của môn phái.
Tâm niệm cuối đời
Những năm 80 trở đi người ta thường thấy võ sư Xuân Bình dẫn môn sinh đi mở võ đài ở khắp nơi: Nha Trang, Phan Rang, Đắk Lắk, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai… Đi đến đâu, ông cũng tham gia thượng đài và mở lớp dạy võ để truyền bá tinh hoa võ cổ truyền Bình Định và tinh thần thượng võ, đạo sống nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ông cho hay gần đây thấy sức hơi xuống nên ít đi đâu, chứ trước đây  ông thường xuyên về quê cũ Bình Định, ghé thăm các bạn võ như võ sư Phi Long, Phan Thọ, Phi Long Vịnh… và mời họ lên chơi, giao lưu.
Một đời theo đuổi nghiệp võ, lão võ sư có niềm an ủi là đào tạo ra nhiều võ sĩ đoạt huy chương bạc và đồng ở các giải vô địch quyền Anh, vô địch võ cổ truyền toàn quốc như Xuân Anh Sơn, Xuân Anh Vũ, Xuân Đoàn, Xuân Dũng, Xuân Thắm. Lớp lớn thì có Xuân Liễu, Xuân Phương, Xuân Lực, Xuân Vinh… Hai con trai của ông là Xuân Sơn và Xuân Hà đều là huấn luyện viên Võ cổ truyền tỉnh Đắk Lắk. Năm 1992, ông cùng học trò là võ sư Nguyễn Văn Tuyên cho ra mắt cuốn sách "Võ thuật đạo Bắc phái Tây Sơn: Tự học võ thuật" giới thiệu cụ thể, chi tiết về môn phái võ thuật độc đáo này đến bạn đọc.
Tuy vậy ông không khỏi chạnh lòng khi thấy phong trào võ cổ truyền đang đi xuống. Võ cổ truyền Việt Nam không phát triển được so với nhiều môn phái võ ngoại lai khác, theo ông là vì kém về tài chính và mạnh ai nấy làm.
Tâm nguyện của ông là luôn gìn giữ và noi theo truyền thống võ cổ truyền Bình Định, không để thất truyền. "Tuổi tôi cũng đã gần đất xa trời rồi, chỉ có hai ước nguyện: một là võ cổ truyền Việt Nam sớm trở thành quốc võ, hai là tất cả kỹ thuật, bài bản của Bắc phái Tây Sơn Võ thuật đạo do chúng tôi biên soạn được in thành sách thật nhiều để phục vụ cho những người hâm mộ võ thuật". Ông cũng mong làm sao quy tụ được các võ phái cổ truyền Việt Nam trong và ngoài nước để tổ chức giao lưu, hội thi võ thuật cổ truyền, chọn lọc những tinh hoa, từng bước hoàn thiện bản sắc dân tộc để tiến tới xây dựng một nền quốc võ.
Kế nhiệm chức chưởng môn đời thứ hai, võ sư Xuân Sơn (sinh năm 1960) bày tỏ tâm nguyện giữ vững truyền thống "Nhớ Tổ - kính Thầy - trọng Bạn" của môn phái, ra sức truyền bá môn võ cổ truyền Việt Nam và phát dương quang đại môn phái mà người cha, người thầy của mình đã dày công vun đắp, gìn giữ gần nửa thế kỷ qua.
Võ sư Xuân Bình là thành viên của Ban cố vấn Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, Phó chủ tịch Liên đoàn Võ cổ truyền Bình Định và đã được trao tặng Huy chương vì Sự nghiệp Thể dục Thể thao. và vẫn tiếp tục dành hết thời gian tâm sức ghi chép lại những tinh hoa của võ phái nhằm truyền lại cho lớp hậu bối vùng sơn cước.
Ngọc Thiện
Xem tiếp…

Giai thoại võ lâm: Võ sư Từ Thiện và đòn “Bát quái côn” trấn áp giang hồ

tháng 8 25, 2018 |

Trong giới võ thuật Sài Gòn trước năm 1975 có một vị võ sư danh tiếng lẫy lừng, võ thuật cao siêu mà tấm lòng cứu nhân độ thế cũng khiến người người nể phục. Đó là võ sư Từ Thiện.

 Ông không những đào tạo được nhiều môn sinh xuất sắc tung hoành khắp các võ đài miền Nam thời đó mà còn ra tay khuất phục được nhiều tay anh chị giang hồ khét tiếng. Nổi tiếng nhất trong những màn trừ gian diệt ác của vị đại tông sư phải kể đến vụ khuất phục tay giang hồ Minh “Cầu Muối”.
Cậu bé lò gốm mê thế võ đả hổ
Võ sư Từ Thiện tên húy là Hồ Văn Lành sinh năm Giáp Dần (1914) tại ấp Khánh Hòa, làng Tân Phước Khánh, tổng Bình Thiện, huyện Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay). Xuất thân trong gia đình có truyền thống về Đông y, thưở nhỏ ông đi làm thuê ở một lò gốm để nuôi thân và phụ giúp gia đình. Năm 14 tuổi, cậu bé Lành theo thọ giáo nghề võ với người dượng thứ sáu tức võ sư Bảy Phiên (đệ tử đời thứ hai của danh sư Hai Ất).
Sau bốn năm ròng rã miệt mài khổ luyện, 18 tuổi, Hồ Văn Lành bắt đầu thượng đài. Năm 20 tuổi, có tên trong đoàn võ sĩ xứ Tân Khánh (do Cai tổng Thêm làm trưởng đoàn) đi thi đấu khắp miền Đông, miền Tây Nam Bộ, bảy lần thượng đài đều giành chiến thắng với hai đòn sở trường là chỏ, gối mạnh và nhanh “như điện 220V” khiến nhiều đối thủ phải tâm phục khẩu phục.
Năm 1939, ông mở võ đường ở Tân Khánh – Bà Trà thu hút hàng trăm môn đồ các nơi đến xin thọ giáo. Năm 29 tuổi, Hồ Văn Lành giúp vốn cho ông Huỳnh Bá Phước (Năm Phước, người tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) – cao thủ môn phái Bạch Hạc, mở tiệm thuốc Đông y. Để trả ơn, quyền sư này đã chân truyền tuyệt kỹ Bạch Hạc phái và Vịnh Xuân quyền cùng phương pháp chữa trật đả, gãy xương… cho ân nhân họ Hồ. Từ đó, không chỉ truyền thụ quyền cước, võ sư Hồ Văn Lành còn nhận chữa trật khớp, bong gân, gãy xương cho môn đệ và bà con xung quanh mà không hề nhận một đồng thù lao nào.
Năm 31 tuổi, ông Lành tham gia đội Thanh Niên Tiền Phong rồi mặt trận Việt Minh, bị thực dân Pháp phát hiện bắt giam. Năm 40 tuổi (1954) được phóng thích, vị cao thủ võ lâm Tân Khánh – Bà Trà vào Sài Gòn mở võ đường truyền bá môn võ đả hổ tại Khánh Hội (Q.4), đến cuối năm 1963 lại dời qua khu cầu Muối, 15/60 Cô Bắc, Q,2 (nay là Q.1).
Lúc này võ sư Hồ Văn Lành lấy biệt danh Từ Thiện (bởi theo ông đích đến của người học võ là lòng vị tha và tính hướng thiện). Trên nửa thế kỷ sống và dạy võ tại vùng đất dữ này, bằng tài năng và đức độ, võ sư Từ Thiện lần lượt thu phục nhiều tay anh chị giang hồ khét tiếng chợ Cầu Muối như đảng cướp “Bàn tay máu” với những đại ca Minh “Cầu Muối”, Nết, Sửu, Ngọc Anh, Ngọc Em…
Ông thầy giữa bầy thảo khấu
Thời đó, khu vực cầu Muối, cầu Ông Lãnh là vùng đất do tứ đại ca Ba Thế (Lâm Văn Thế) cai quản. Do đó việc ngang nhiên mở võ đường mà không được phép anh Đại (Đại Cathay, vua giang hồ Sài Gòn thời đó) của võ sư Từ Thiện đã làm ngứa mắt đám du đãng, giang hồ tại khu vực cầu Muối. Chuyện vuốt mặt chẳng nể mũi của ông thầy võ đã đến tai Ba Thế và hắn đã thay mặt Đại Cathay xuống chỉ cho Minh “Cầu Muối” dẫn đàn em đến quậy nát võ đường của lão Út (tên thường gọi của võ sư Từ Thiện).
Lúc đó khoảng xế chiều, võ sư Từ Thiện đang dạy binh khí cho các nghệ sỹ thuộc hai đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ và Huỳnh Long (đóng đô tại khu chung cư hẻm 27 Cô Giang, cầu Ông Lãnh) tại võ đường.
 
Bỗng dưng xuất hiện hơn 30 tên côn đồ mặt mày đằng đằng sát khí do trùm du đãng Minh “Cầu Muối” dẫn đầu. Đứa nào mình mẩy cũng xăm trổ chằng chịt, tay lăm lăm mã tấu, dao lê, xích sắt, thắt lưng, gậy gộc, dao mổ heo… hùng hổ kéo vào võ đường như muốn ăn tươi nuốt sống thầy Út khiến các nghệ sỹ sợ hãi bỏ chạy tán loạn.
Bình tĩnh trấn an đám môn đệ, võ sư Từ Thiện ôn tồn: “Các chú cần gì, không thù không oán tại sao lại đến gây hấn?”. Minh “Cầu Muối” tay vung xích sắt, lớn lối: “Tội của lão là tự ý mở võ đường mà không xin phép anh Đại!”. Nói chưa dứt câu, đám sát thủ máu lạnh vây thành vòng tròn bao vây võ sư Từ Thiện rồi đồng loạt tấn công. Nhanh như chớp, võ sư Từ Thiện chụp cây trường côn bằng sắt trên giá binh khí sử ra bài “Bát quái côn” danh trấn giang hồ của Bạch Hạc phái. Ông tiến thoái nhịp nhàng, tả xung hữu đột, đỡ trên gạt dưới, đường côn sáng loáng và đầy uy lực, tiếng gió rít lạnh người, côn vụt đến đâu, đám du đãng dạt ra đến đó.
Màn đánh đấm kết thúc sau gần mười phút, hàng chục tên du đãng ôm đầu máu bỏ chạy thục mạng, các tên còn lại đứa gãy giò, thằng què tay vội sụp xuống chắp tay lạy võ sư họ Hồ như tế sao. Nhiều tay anh chị vừa khi nãy còn hung hăng thì giờ đây mình mẩy xưng vù tứa máu, có đứa nằm thẳng cẳng bất ly cục cựa.
Tin dữ đến tai Đại Cathay, nhưng sau khi so sánh thực lực đôi bên hắn ngộ ra là cỡ hắn không phải là đối thủ xứng tầm của ông thầy dạy võ. Dằn cơn tự ái, trùm du đãng Sài Gòn hạ lệnh cho Minh “Cầu Muối”: “Để yên võ đường của thầy Út, cấm tiệt đứa nào đến quậy phá!”. Kể từ đó, đám giang hồ hùng cứ khu cầu Muối, cầu Ông Lãnh chẳng còn dám bén mảng đến võ đường của võ sư Từ Thiện nữa. Thậm chí có nhiều tay du đãng chuyên đâm thuê chém mướn đã đến thọ giáo nghề võ của quyền sư Từ Thiện, sau thời gian theo học đã được sư phụ cảm hóa, sau đó đã hoàn lương.
“Tứ Tú” của làng võ Sài Gòn
Năm 1959, võ sư Từ Thiện chính thức gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật, bắt đầu đào tạo võ sĩ thi đấu võ đài, ông còn trao đổi thêm kỹ thuật môn quyền Anh cùng những đồng đạo thân thiết như Kid Dbpsey, Huỳnh Tiền, Phan Văn Hai, Lê Văn Kiển (Tám Kiển), Nguyễn Văn Thanh (Chín Mai)…
Võ đường Từ Thiện là một trong bốn võ đường (cùng với võ đường Trần Xil, Xuân Bình, Lý Huỳnh) đào tạo võ sinh, võ sĩ nhiều nhất miền Nam giai đoạn 1965-1975, vì thế lần đầu tiên bộ môn quyền thuật được Phủ Thủ tướng và Tổng Nha Thanh Niên chế độ cũ tặng “Bằng Danh Dự ưu hạng” vào hạ tuần tháng 7/1970, được báo chí Sài Gòn phong danh “Tứ tú trên bầu trời võ thuật”. Năm 1973 võ đường lại vinh dự được Tổng Nha Thanh Niên và Phủ Thủ tướng ban tặng “Thể thao bội tinh”.
Một số môn đệ (nam lấy biệt danh họ Từ, nữ họ Hồ) như Từ Quang Vũ, Từ Thanh Nghĩa, Từ Thanh Long, Từ Thanh Quang… mở điểm tập thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên. Các võ sĩ đạt nhiều thành tích trên võ đài gồm Từ Thanh Nghĩa, Từ Thanh, Hồ Phi Phụng, Hồ Thanh Sương, Hồ Bạch Yến (Lý Huỳnh Yến), Hồ Phi Yến, Hồ Ngọc Thọ…
Sau ngày đất nước thống nhất, võ sư Từ Thiện độ nhật bằng nghề chữa bong gân, gãy xương, trặc khớp… tại tư gia. Khi phong trào võ thuật hồi sinh, ông được mời làm cố vấn chuyên môn Liên đoàn Võ Cổ truyền TP.HCM. Thời gian này (1991-1996) võ sư Từ Thiện có nhiều bài viết về võ thuật đăng trên các báo và tạp chí “Võ thuật”, năm 1991, ông xuất bản sách “Võ thuật phái Tân Khánh” được nhiều người quan tâm. Năm 2003, được UB.TDTT tặng Huân chương “Vì sự nghiệp Thể dục thể thao”. Năm 2005, do tuổi cao sức yếu, lão võ sư Hồ Văn Lành đã về cõi vĩnh hằng tại tư gia, hưởng thọ 90 tuổi, ngày giỗ hằng năm tổ chức vào ngày 27/10 (Âm lịch).
Anh Thư (T.H)

Xem tiếp…

Bài viết với thời gian

Tổng truy cập