Gặp võ sư Hầu quyền xứ Huế

tháng 9 25, 2018 |
Kinh qua nhiều môn phái, thông thạo nhiều thế võ từ hiện đại đến cổ truyền, võ sư Nguyễn Văn Anh tìm đến và gắn bó với bộ môn “võ khỉ” trong một dịp tình cờ.

Một chiều đầu năm mới, trong tịnh thất của gia đình, võ sư Nguyễn Văn Anh (tự Ngọc Anh, 64 tuổi) hăng say lật giở những tài liệu giới thiệu về bộ môn Hầu quyền đạo – môn “võ khỉ” vốn được xem là một trong những phái võ độc đáo trong kho tàng võ cổ truyền Việt Nam.

Trong kí ức của vị võ sư từng kinh qua và thông thạo nhiều trường phái võ hiện đại như Taekwondo, Aikido, Judo, vật tự do cho đến những thế võ thuộc dòng cổ truyền trong Võ kinh Vạn An, Thiếu Lâm Bắc Phái Vi Đà… thì một trong những môn võ được xem là “cơ duyên” mà ông Ngọc Anh dành nhiều tâm huyết học và nghiên cứu chính là “võ của loài khỉ”.
Võ sư Ngọc Anh trong một thế võ của loài khỉ. Ảnh: Đắc Đức

Vị phó Chưởng môn phái võ Hầu quyền đạo Việt Nam kể rằng năm 1979, trong một dịp tình cờ khi còn đang một cán bộ phụ trách công tác võ cổ truyền ở Thành đoàn Huế, ông được cố võ sư Trương Cảnh mời đến nhà chơi và giới thiệu làm quen một vị võ sư trẻ hơn có tên là Hoàng Thành.
Hợp tính cách, cả hai sau đó kết nghĩa tình huynh đệ, cùng nhau xây dựng phong trào võ thuật quê hương. Do ở chung một nhà, quá trình tập luyện phát hiện người em kết nghĩa có những bài Hầu quyền đẹp mắt, có tính chiến đấu tuyệt vời nên ngỏ ý muốn học để trau dồi thêm kiến thức về võ thuật.
Được em truyền dạy, với tư chất nhanh nhạy nên chỉ trong thời gian ngắn, võ sư Ngọc Anh đã nắm thuần thục những thế căn bản cùng những miếng đòn đặc trưng của môn võ Hầu quyền. Từ đó, hai anh em đã bắt tay nhau biên soạn 5 bài cơ bản về quyền cương để làm nên tảng cho những bài tập căn bản mở đầu cho môn phái Hầu quyền đạo.
“Nhiều lần, tôi dò hỏi sư đệ xem vị thầy nào đã truyền dạy môn võ Hầu quyền cho đệ ấy để được diện kiến nhưng đều bị từ chối trả lời”, ông Anh hồi kể và cho hay đến tận bây giờ bản thân ông cũng không biết gốc tích của những thế võ Hầu quyền mà mình đã được người em kết nghĩa truyền dạy.
Năm 1980, võ phái “Hồng phái – Hầu quyền đạo Việt Nam”, đứng đầu là võ sư Chưởng môn Hoàng Thành, võ sư Nguyễn Văn Anh giữ chức Phó chưởng môn, chính thức được thành lập. Những ngày đầu, việc truyền bá bộ môn “võ khỉ” vốn khá mới lạ ở nước ta gặp không ít khó khăn do sự đón nhận của người dân không nhiều.
Nhưng bằng sự miệt mài tìm tòi, nghiên cứu và luôn nuôi ý niệm muốn truyền bá tinh hoa võ học của bậc tiền nhân đến với công chúng, nhóm võ sư phái võ Hầu quyền dần cũng đưa võ học của môn phái mình phát triển rộng khắp các tỉnh từ Bắc chí Nam, với hàng nghìn môn sinh theo học. Riêng tại Huế, với vai trò là Trưởng môn phái Hầu quyền đạo Việt Nam tại Huế, võ sư Nguyễn Văn Anh đã truyền dạy cho nhiều môn đệ thành danh khi tìm đến với môn “võ khỉ”.
Hơn 35 năm kể từ ngày “bén duyên” và gắn bó cuộc đời với môn võ Hầu quyền, võ sư Nguyễn Văn Anh vẫn hăng say truyền bá võ học dân tộc đến với bạn bè trong nước và quốc tế. Ảnh: Đắc Đức.

Theo ông, môn sinh sau khi nhập môn sẽ được học các bài quyền mức độ thấp đến cao qua 4 giai đoạn luyện từ quyền kỹ đến công phu. Từ những bài Hồng thất quyền, Cương nhu quyền, Bát quái di ảnh quyền, Thập nhị ma vương Hầu… Ngoài ra, còn có các bài luyện Trường côn, Tề mi côn, Thập nhi nhuyễn khúc côn, vốn là những bài võ kết hợp với côn pháp.
Người võ sư từng là huấn luận viên và trọng tài quốc gia môn Vật tự do cho hay, trong “Thập đại hình tượng” của võ học, Hầu (tức khỉ) đứng hạng thứ 9, và là một trong những quyền thuật được đánh giá khó luyện bởi sự biến hóa không ngừng trong từng đòn thế.
Hầu quyền về nguyên tắc là một hệ thống quyền thuật mô phỏng đời sống động tác và cách chiến đấu của loài khỉ giữa cộng đồng hoặc các loài thú khác. Lấy các động tác nhảy, nhào lộn, chụp bắt làm sở trường. Môn võ này đòi hỏi người luyện tập phải phối hợp nhịp nhàng tay, chân và thân pháp phải linh động nhẹ nhàng.
Võ sư Ngọc Anh là người Việt Nam duy nhất được công nhận danh hiệu “Võ sư Quốc tế” do Liên đoàn thế giới Võ học Cổ truyền Việt Nam cấp. Ảnh: Đắc Đức.
“Việc điều hòa hơi thở trong quá trình thi triển công phu là một trong những yếu tố quyết định, vì thế người luyện môn võ này phải tập luyện cách thở. Ngoài ra, đôi mắt phải có tính linh hoạt”, võ sư Ngọc Anh nói và cho hay hiện ở Huế không nhiều người biết đến bộ môn Hầu quyền Đạo như trước kia.
Là Chủ tịch Hội võ cổ truyền Thừa Thiên – Huế, võ sư Ngọc Anh thường xuyên dẫn đầu đoàn võ của địa phương đi thi đấu và giành nhiều danh hiệu cao ở các giải trong nước và quốc tế. Với sự am tường về võ học của nhiều phái võ khác nhau nên tháng 8/2015, võ sư Nguyễn Văn Anh là người Việt Nam duy nhất được công nhận danh hiệu “Võ sư quốc tế” do Liên đoàn thế giới Võ học Cổ truyền Việt Nam cấp.
“Hiện nay, số môn đệ theo học Hầu quyền Đạo không còn nhiều như trước kia nhưng tôi và các vị võ sư khác vẫn muốn truyền đạt những gì tinh túy nhất của môn võ của ông cha cho thế hệ trẻ”, vị võ sư bát đẳng Hầu quyền đạo tâm sự.
Theo Đắc Đức/VnExpress


Xem tiếp…

NHỮNG TRUYỀN KỲ VỀ SƯ TỔ PHÁI VỊNH XUÂN VIỆT NAM

tháng 8 30, 2018 |

(Kiến Thức) - Tên lính lê dương vung quyền đấm vào ngực một ông lão nhưng kỳ lạ là chính hắn bắn ngược lại suýt rơi xuống rãnh còn ông cụ chẳng làm sao.

Cao thủ ẩn thân
Ông lão ấy không ai khác, chính là cụ Nguyễn Tế Công, một cao thủ Vịnh Xuân quyền từ Trung Quốc sang Hà Nội năm 1939. Vào lúc đó, cụ Tế đã 62 tuổi và người rất gầy. Nếu không chứng kiến vụ va chạm này chắc không ai tin đây là một cao thủ võ thuật.
Nhưng vào lúc ấy có một người đã chứng kiến từ đầu đến cuối và nhận ra ngay bậc chân tài. Người đó là cố võ sư Trần Thúc Tiển, một trong những đệ tử của cụ Tế Công sau này. Trong cuốn Việt Nam Vĩnh Xuân nội gia quyền của Nxb Đại học Sư phạm ấn hành, võ sư Nguyễn Ngọc Nội (học trò võ sư Trần Thúc Tiển) ghi lại câu chuyện rằng:
“Vào những năm 1940, nhà cố võ sư Trần Thúc Tiển ở 38 Gia Ngư. Vào các buổi chiều, cố võ sư có thời gian thường mang ghế ra ngồi ở trước cửa. Thời đó phố xá vắng vẻ, hè phố Gia Ngư rộng rãi. Qua những lúc ngồi ở cửa, cố võ sư Trần Thúc Tiển thường thấy một ông già người Tàu cao gầy một tay cắp cái mẹt trên đựng quẩy, bánh gối, tương ớt, dấm, còn tay kia cắp một cái giá gấp đi bán rong từ phía chợ Hàng Bè lại.
Vào một buổi chiều, cố võ sư Trần Thúc Tiển đang ngồi thì thấy hai người lính lê dương to cao đi từ phố Đinh Liệt (bây giờ) lại. Bộ dạng hai người lính như đang say, đáng đi chếnh choáng. Cùng lúc đó, ông già người Tàu đó cũng đi trên hè với hướng ngược lại hai người lính.
Lúc giáp nhau, vô tình cứ ông già người Tàu tránh sang bên nào thì hai người lính cũng tránh về bên đó. Sau hai ba lần như vậy, một trong hai người lính có vẻ tức tối, vung nắm đấm, đấm vào người ông già. Cố võ sư Trần Thúc Tiển thấy ông già không tránh và cũng không buông mẹt và giá ra để đỡ.

Võ sư Nguyễn Tế Công và con trai nhỏ chụp ảnh cùng các đệ tử. Ảnh: Internet.
Cố võ sư Tiển thấy người lính đã đấm vào ngực ông già nhưng thật lạ, người lính kia lại bắn ngược lại khoảng 2m, lăn ra vỉa hè gần rãnh nước.
Người lính thứ hai thấy bạn mình bị ngã tưởng bị ông già kia đánh, mới tung cú đấm rất mạnh vào người ông già. Và lại giống như bạn mình, người lính này bị bắn ngược lại thậm chí còn văng xa hơn người kia, lăn xuống rãnh.
Trong khi đó ông già người Tàu vẫn đứng yên. Hai người lính lồm cồm bò dậy chắc vì ngượng dẫn nhau bỏ đi. Tận mắt chứng kiến sự việc đó, võ sư Tiển đã nghĩ đến đây là một ông già Tàu giỏi võ. Sau đó võ sư Tiển để tâm tìm hiểu lai lịch, chỗ ở của ông già Tàu.
Rồi một hôm, võ sư Tiển tìm đến nơi ông già Tàu ở để xin theo học. Có thể bằng nhãn quan của một Đại sư, với sự từng trải, ông đã nhìn thấy cơ duyên ở người học trò này nên đã nhận lời”.
Những cuộc tỉ đấu và biểu diễn nội công
Trong nhiều giai thoại ly kỳ về cụ Tế Công, nổi bật nhất là những giai thoại về nội công thâm hậu của cụ. Những môn sinh Vịnh Xuân Việt Nam hầu hết đều biết và truyền nhau câu chuyện về cuộc tỉ đấu nội công của cụ Tế.
Số là hồi mới sang Hà Nội, cụ Tế ở trong nhà ông Cam Túc Cường - một Hoa kiều. Một hôm cụ đang khám bệnh cho khách thì có hai người Trung Quốc, một già một trung niên bước vào cửa. Bộ dạng người trung niên rất dữ dằn.
Nhìn thấy họ, cụ Tế liền bảo người nhà rót hai chén trà rồi đưa cho ông trung niên một chén còn mình cầm một chén. Hai người cầm chén trà cụng vào nhau tưởng đâu là chúc tụng nhưng thực ra là cả hai đang ngấm ngầm tỉ đấu nội lực với nhau.
Ông khách trung niên toát mồ hôi hột, tay run run cứ phải lùi mãi ra cửa. Thấy vậy, ông khách già đi cùng lên tiếng: “Suốt đời nội lực của anh không sánh kịp Tế Công đâu, thôi xóa bỏ hận thù đi”. Lúc ấy mọi người mới vỡ lẽ ông trung niên kia vốn có mối thâm thù với cụ Tế nên đã bỏ ra mười mấy năm luyện tập rồi đi tìm cụ để tỉ thí nhưng rồi vẫn phải chịu thua.
Cũng nói về nội công của cụ Tế Công, võ sư Nguyễn Ngọc Nội chép một câu chuyện mà ông được nghe thầy của mình kể lại: “Theo học Sư tổ Nguyễn Tế Công một thời gian, các học trò chỉ được nghe nói về nội công Vĩnh Xuân mà không hiểu thực hư ra sao. Nhìn Sư tổ người cao, gầy, thân hình mỏng, không ai nghĩ Sư tổ có thể chịu được các đòn đánh vào người.
Một hôm, bác sĩ Phạm Khắc Quảng (một trong số các học trò của Sư tổ) mạnh bạo hỏi Sư tổ về nội công. Sau một thoáng suy nghĩ, Sư tổ bảo các anh em học trò đi theo người ra bãi giữa sông Hồng. Thời kỳ này bãi giữa sông Hồng chỉ là những bãi bồi, không có người ở.
Tất cả các học trò có mặt cùng sư tổ lên xe ô tô của bác sĩ Phạm Khắc Quảng đi ra bãi giữa. Tại đây, người đứng yên để cho các học trò của mình từng người đánh thoải mái vào người sư tổ. Chỉ sau một vài đòn đánh khẽ ban đầu, các học trò của người đã đánh hết sức mình (sức trẻ của tuổi thanh niên đã từng tập các môn thể thao như tạ, quyền anh… trước khi đến với môn Vĩnh Xuân). Và tất cả các học trò, sau khi đánh hết sức mình đều mệt nhoài, nằm thở trên bãi cát, còn sư tổ vẫn như không có gì xảy ra với mình. Sau khi để các trò nằm nghỉ một lúc, sư tổ ra hiệu tất cả lên xe để đi về. Sau buổi đó, các học trò mới hình dung được thế nào là nội công”.
Về khả năng này, ngày nay những truyền nhân của cụ Tế cũng nhiều người luyện được. Võ sư Nội đã có lần biểu diễn trên truyền hình đứng cho học trò đấm hàng trăm, ngàn quả vào người mà vẫn nói chuyện tiếp phóng viên VTV bình thường. Hay như võ sư Nguyễn Mạnh Nhâm có lần sang Trung Quốc thăm quê hương sư tổ Tế Công cũng đã đứng cho một võ sinh Trung Quốc đấm đến khi mệt thì thôi.
Cụ Nguyễn Tế Công sống và dạy võ ở Hà Nội từ năm 1939 đến 1954 đã đào tạo được nhiều học trò. Một vài người trong số họ sau này đã mở võ đường truyền bá môn võ này. Những người nổi tiếng có võ sư Trần Thúc Tiển, Trần Văn Phùng, Ngô Sĩ Quý, Vũ Bá Quý.
Từ năm 1954, cụ Tế Công vào Nam có thu nhận thêm một số đồ đệ như ông Hồ Hải Long và tiếp tục truyền dạy Vịnh Xuân ở Sài Gòn. Năm 1959 cụ Tế Công tạ thế thọ 83 tuổi. Hiện tại mộ cụ ở nghĩa trang người Hoa Quảng Đông ở Lái Thiêu – Bình Dương.
Do sự truyền bá của cụ Tế Công ở cả Hà Nội và Sài Gòn, ở Việt Nam đã hình thành nên một chi phái Vịnh Xuân. Cho đến hiện tại, chi phái Vịnh Xuân Việt Nam là một trong những chi phái lớn của môn Vịnh Xuân toàn thế giới.
Khánh Nam

Xem tiếp…

VỊNH XUÂN CHÍNH THỐNG PHÁI - TIỂU SỬ ĐẠI SƯ NAM ANH

tháng 8 28, 2018 |
Xuất thân từ một gia đình có truyền thống võ thuật lâu đời, Đại Sư Nam Anh đã được ông ngoại truyền thụ võ công Thiếu Lâm Tự ngay từ thuở ấu thơ.
                                                                    Đại Sư Nam Anh, Việt Nam 1979
Đến năm 1959, ông được vinh dự trở thành hội viên của Tinh Võ Hội (vốn là một tổ chức quốc tế về võ thuật và tiêu chí để kết nạp vào hội viên rất chọn lọc) và theo học môn Võ Đang dưới sự huấn luyện của Đại Sư Quan Thế Minh. Năm 1967, ông có cơ duyên gặp được đạo sĩ Trương Tòng Phú, vốn là Đại Sư chưởng môn phái Võ Đang nên ông đã quyết định theo Thầy lên núi tu luyện suốt ba năm ròng.
Hạ sơn năm 1969 và từ đó đến năm 1975, ông theo học môn Vịnh Xuân với võ sư Hồ Hải Long (tên thật là Nguyễn Duy Hải), một trong số các truyền nhân của Đại Sư Nguyễn Tế Công . Trong khoảng thời gian ấy, cùng với võ sư Hồ Hải Long, ông đã sáng lập nên bộ môn Thần Khí Đạo với tinh hoa đặt nặng trên Khí và Thần.
Sau năm 1975, một hoàn cảnh đặc biệt đã khiến ông gặp gỡ Đại Sư Hạng Văn Giai tại trại học tập cải tạo Chí Hòa. Cùng trong cảnh ngộ là trại viên diện chính trị, giữa hai người đã nảy sinh một mối thâm giao. Suốt trong thời gian từ 1975 đến 1977, ngoài giờ học tập lao động, Đại Sư Hạng Văn Giai đã tâm truyền cho ông sở học thâm sâu về các ngành học thuật Đông Phương như Phong Thủy, Tướng Pháp và Tử Vi Đẩu Số. Sau khi mãn hạn học tập, ông đã quyết chí lặn lội tìm kiếm tung tích của Đại Sư Nguyên Minh theo lời gửi gắm của Đại Sư Hạng Văn Giai. Sau khi đã gặp và vượt qua nhiều thử thách, ông đã được Đại Sư Nguyên Minh nhận làm đệ tử thân tín và dốc lòng truyền dạy cho ông để kiện toàn hết trình độ cao đẳng và siêu đẳng của Vịnh Xuân (từ năm 1977 đến năm 1983).
Đại Sư Lưu Đại Phong và Đại Sư Nam AnhSau hơn 30 năm khổ luyện, Đại Sư Nam Anh đã được Đại Sư Nguyên Minh , đại diện ủy quyền của Kim Cương Tự, chính thức sắc phong Chu Sa Đai đệ cửu đẳng và được chỉ định làm chưởng môn đời thứ 6 Vịnh Xuân Chính Thống Phái tại Việt Nam. Sự lựa chọn này chủ yếu xét đến kiến văn, trình độ văn hóa và khả năng vận dụng trong xã hội đương đại.
Trong năm 1978, ông cũng gặp lại Đại Sư Lưu Đại Phong, tức Lục Bình Đạo Nhân, vốn là sư đệ của Đại Sư Trương Tòng Phú. Cũng là người phái Võ Đang, Lục Bình Đạo Nhân quí ông như một đệ tử thân tín và trở thành cố vấn tinh thần cho ông.
Đặc biệt vào năm 1980, ông đã khổ công tập luyện thêm Bạch Mi chính thống phái tại Việt Nam với Đại Sư chưởng môn Lư Bình Vân, nhờ vậy hóa giải được mối bất hòa trước đây giữa hai môn phái Bạch Mi và Vịnh Xuân.
Bên cạnh sự nghiệp về Võ Thuật, Đại Sư Nam Anh còn hoạt động rất tích cực trong nhiều lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp khác :
Đại Sư Lư Bình Vân và Đại Sư Nam AnhTốt nghiệp Cao Học Luật Công Pháp Quốc Tế tại Luật Khoa Đại Học Đường – Sài Gòn, cử nhân văn chương Pháp và Đức – Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.
1969 đến 1973 : Hội viên Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam, phó tổng thư ký Tòa soạn Nguyệt san Võ thuật là tạp chí duy nhất về võ thuật thời đó.
1973 : Luật Sư thuộc Luật Sư Đoàn – Sài Gòn.
1973 đến 1975 : Cố vấn Pháp Lý cho Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam
1977 đến 1986 : Hội viên Hội Luật Gia Việt Nam.
Đến Québec – Canada năm 1986, ông là Giáo Sư giảng dạy hơn 9 năm tại Đại Học Montréal, cùng lúc hoàn tất học trình Tiến Sĩ Luật Thương Mại quốc tế.
Đại Sư Nam Anh còn là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Liên Đoàn Quốc Tế Thiếu Lâm Vịnh Xuân Nam Anh Kung Fu và Liên Đoàn Quốc Tế Vịnh Xuân Chính Thống phái. Đồng thời ông cũng là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Hội Án, Ma, Nã tại Québec và là tác giả của hơn 16 quyển sách các loại từ võ thuật, sinh ngữ, kiến trúc, đến đông y, tử vi đẩu số v.v… xuất bản trong những năm 1969 – 1975.
 Nguồn: http://vinhxuanphai.com
Xem tiếp…

Kỳ nhân làng võ - Kỳ 12: Độc chiến giang hồ cầu Muối

tháng 8 25, 2018 |

Ở Sài Gòn trước 1975 xuất hiện một môn võ lạ lùng: tất cả chiêu thức, bộ, thân và tấn pháp đều dịch chuyển ngang… như cua, địch thủ rất khó tiếp cận, nhưng ít môn sinh theo học do chiêu thức quá… kỳ cục. Nếu khổ luyện được sẽ trở thành cao thủ có khả năng “tung một đòn là gục”.



Quyền sư Trịnh Thế Tuấn (đội nón) cùng các đồ đệ - Ảnh: Gia đình cung cấp
Môn võ đó là Sơn Đông Lục Hợp môn thuộc Thiếu Lâm Bắc phái, xuất xứ từ tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) do sáu đại môn phái hợp lập thành. Môn công phu này đòn đánh dài (trường quyền), bộ pháp nhảy nhót như khỉ và xoay trở lẹ như cheo. Cao thủ truyền bá Sơn Đông lục hợp môn vào Chợ Lớn là Lâm Kim Hầu - con rể tổng tiêu cục tỉnh Sơn Đông. Sau đó, Quan Nhữ Châu (người Quảng Đông) vốn là thủy thủ (biệt danh “Ba Tàu lũ”) đã kế vị, mở võ đường ở khu Dân Sinh (cạnh Trường học Kim Tinh, Q.1), đào tạo nhiều cao đồ gồm Thích Nam (Nàm Chẩy), Chao Chảy, A.Hỉ, A.Cỏn, Trịnh Bỉnh Nam, nổi bật nhất là Trịnh Thế Tuấn (Xây Chân) đã lĩnh hội trọn vẹn các tuyệt kỹ của môn phái.
Quyền sư Trịnh Thế Tuấn sinh năm 1922 (người Phước Kiến), dáng cao, vạm vỡ, ánh mắt sắc lẹm, sau khi thụ đắc sở học từ Quan sư phụ đã mở lớp dạy võ tại nhà (258/11 Nguyễn Công Trứ, Q.1) thu hút hàng trăm môn đồ. Ngoài truyền bá công phu Sơn Đông, Trịnh Thế Tuấn thường ra tay “trừ gian diệt bạo”, trừng trị đám giang hồ chuyên đi trấn lột bà con tiểu thương “thấp cổ bé họng” ở chợ Cầu Muối. Trong một lần ra tay nghĩa hiệp, Trịnh cao thủ đã bạt tai Hòa “hư vô” - gã đàn em thân tín của Đại “Cathay”. Nhận được hung tin, “ông vua du đãng Sài Gòn” giận nổ trời, lập tức “xuống chỉ” cho đảng “Bàn Tay Máu” (hùng cứ “liên khu Xóm Tỉnh - Vựa mía”) thay hắn trả mối hận này.
Hay tin dữ, bà con ở hẻm 258 “hồn vía lên mây” trốn biệt trong nhà, khóa cửa tắt đèn khiến không khí lặng như tờ. Chẳng bao lâu sau, hơn 40 tên “đầu trâu mặt ngựa” tay lăm lăm dao chặt đá, xích sắt, búa chẻ củi hùng hổ kéo đến chật kín con hẻm đòi “hành quyết” quyền sư họ Trịnh. Cầm đầu đám giang hồ là đại ca Nết, Sửu, Ngọc anh, Ngọc em, Lộc “Cầu Muối”, Quý “tử hình” (anh ruột Lai anh, Lai em trong vụ án Năm Cam), Cung “Cô Bắc”, Ẩn “Mayer”… Lúc bấy giờ, thái độ vị cao thủ Sơn Đông vô cùng bình thản, đứng thế “lập tấn” tay chống ngọn côn đợi đám giang hồ trước hiên nhà.
Chẳng nói chẳng rằng, cùng lúc hàng chục tên giang hồ đồng loạt lao vào tấn công quyền sư họ Trịnh. Nhanh như cắt, cao thủ Sơn Đông loang tít cây côn bao bọc khắp thân mình, bộ pháp di chuyển theo “Bát Quái hình” thoắt ẩn thoắt hiện khiến trong đám giang hồ không ít tên võ nghệ đầy mình nhưng chẳng tài nào áp sát được Trịnh cao thủ bởi thân pháp phái Sơn Đông Lục Hợp môn di chuyển ngang như… cua, ảo diệu khôn lường, hư hư thực thực. Ngọn côn trong tay Trịnh cao thủ xoay vùn vụt đầy uy lực, giương đông kích tây, khi tả lúc hữu, nhá trên đập dưới, côn múa đến đâu đám du đãng ngã rạp đến đấy. Chỉ chưa đầy 10 phút, hàng chục tên anh chị trúng tuyệt kỹ “Quần Vương côn”, kẻ bể đầu thằng gãy cẳng nằm la liệt khắp hẻm, một số khác nhanh chân quăng vũ khí tháo chạy tán loạn, huyên náo cả một vùng.
Sau vụ này, Đại “Cathay” vô cùng bẽ bàng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”, phá lệ bấm bụng “cấp môn bài” cho võ đường Trịnh Thế Tuấn được tự do dạy võ tại lãnh địa của hắn. Trịnh sư phụ có công đào tạo nhiều đệ tử tài năng gồm Trịnh Quế Lâm (cháu ruột), Lý Cự, Đặng Trí Minh, Nguyễn Hoàng (bán chim ở chợ Cũ), Dì Nhỏ, Tô Nguyên Phước, Lào Cảo, A.Cón, A.Sồi, Hải “đen”… Sau 1975, lò võ ngừng hoạt động, để có tiền độ nhật, cao thủ Sơn Đông lái xe buýt. Trong những chuyến hành trình ngược xuôi Sài Gòn - Chợ Lớn, bác tài họ Trịnh đã ra tay khuất phục hàng trăm tên móc túi, trấn lột, trộm cắp bắt giao công an. Sau đó, ông chuyển qua làm tài xế đưa rước công nhân dệt ở Q.Thủ Đức. Cao thủ Sơn Đông Lục Hợp môn đã mất ngày 13.11.1996 (âm lịch), hưởng thọ 74 tuổi.
Ngọc Thiện
Xem tiếp…

Kỳ nhân làng võ - Kỳ 8: Đại võ sư Huỳnh Tiền

tháng 8 25, 2018 |

Trong làng quyền anh, Huỳnh Tiền là một trong những cây đại thụ đào tạo ra nhiều thế hệ võ sĩ nổi tiếng. Ông được ví như một đại lão võ sư và là cột trụ sừng sững của làng đấm bốc miền Nam.


Võ sư Huỳnh Tiền năm 1953 - Ảnh: tư liệu gia đình cung cấp
Võ sư Huỳnh Tiền sinh năm 1916, nhỏ hơn người anh cùng cha khác mẹ là huyền thoại boxing Kid Dempsey 3 tuổi. Thuở thiếu thời, chỉ vì một sự hiểu lầm với người em Huỳnh Tiền mà có lần “ông vua” quyền anh đã lạnh lùng tuyên bố: “Có Huỳnh Tiền thì không có Kid Dempsey!”. Cũng vì hiềm khích nên sau này lớn lên, Kid Dempsey quyết định mang họ mẹ Nguyễn Văn Phát.
Huỳnh Tiền vốn mang dòng máu chuộng võ từ cha (võ sư Huỳnh Văn Hinh) nên từ nhỏ rất say mê võ thuật, luôn mơ trở thành “dũng sĩ trừ gian diệt bạo”. Đến năm 15 tuổi, mặc dù gia đình cản ngăn nhưng Huỳnh Tiền vẫn cương quyết tầm sư học đạo. Ông lén gia đình học quyền anh với võ sư người Pháp Lepudeur, sau đó trau dồi kỹ năng cùng võ sư Cantérat. Sau 3 năm chuyên cần khổ luyện, năm 18 tuổi, Huỳnh Tiền lần đầu đặt chân lên võ đài và nhanh chóng trở thành một cánh chim lạ trên bầu trời võ thuật. Điểm khác biệt so với hai tay đấm đàn anh Kid Dempsey và Minh Cảnh chỉ biết đấu quyền anh thì Huỳnh Tiền còn giỏi cả quyền tự do. Năm 28 tuổi, Huỳnh Tiền chuyển sang thi đấu quyền ta (còn gọi là quyền tự do), từ đó tài năng của ông càng thăng tiến vượt bậc, với sự kết hợp quyền anh và quyền tự do, Huỳnh Tiền là người đầu tiên mở ra một hướng mới trong việc đào tạo võ sĩ thượng đài.
Trong quá trình thượng đài, Huỳnh Tiền từng hạ nhiều tay đấm sừng sỏ như Võ Châu Long, Hồ Thanh Xuân (Bình Định), Trần Văn Ngọ (tức Kim Sang - Quảng Ngãi), Phan Thành Sự (Bến Tre), Lý Soul, Văn Thọ (Campuchia), Văn Hoán (vô địch Bắc kỳ), Trịnh Thiếu Anh (Khánh Hòa), Trần Cơ (Hải Phòng), Lê Hữu Vĩnh (Rạch Giá), Thái Học Kỳ (Cần Thơ), Lữ Hồng Cơ (Cà Mau), Nguyễn Son (vô địch miền Tây)... Trong số các võ sĩ đương thời, chỉ có mỗi “Võ Vương” Minh Cảnh (vô địch Đông Dương) là thắng được Huỳnh Tiền một trận, còn lại cũng phải chịu 2 trận thua và một trận hòa trong tất cả 4 lần so găng.
Tuy vóc người thấp bé nhưng bù lại Huỳnh Tiền được thiên phú cho bước di chuyển linh hoạt uyển chuyển như… múa ba lê, dựa trên một nền tảng thể lực cùng sự dẻo dai đáng kinh ngạc, đặc biệt là lối thi đấu khôn ngoan, điềm tĩnh, luôn hạ knock-out đối phương ở những thời khắc ít ai ngờ tới. Chính lối thi đấu “ranh mãnh” đã đưa Huỳnh Tiền đoạt chức vô địch VN (quyền anh và quyền tự do) năm 1948, 1949, 1953, 1965, được báo chí Sài Gòn tôn vinh biệt danh “Con cáo già”, “Đệ nhất anh hùng miền Đông”, là “Cây trụ đồng sừng sững của làng đấm miền Nam” (chữ dùng của ký giả Thiệu Võ trên tuần san Thao Trường).
Sự nghiệp võ đài lừng lẫy của “con cáo già” Huỳnh Tiền tưởng chừng như một bản giao hưởng toàn những nốt thăng. Thế nhưng cũng đã có không ít “dấu lặng” khó quên đối với ông. Đó là lần thua điểm tay đấm Nguyễn Nhị trong một độ quyền tự do tại võ đài Hội An (Quảng Nam). Sau trận này, Huỳnh Tiền tuyên bố không bao giờ ra miền Trung thi đấu nữa. Tiếp nữa là vào năm 1970, ông bị Tổng cuộc quyền thuật VN phạt “cấm dạy võ và thi đấu trong một năm” do “tổ chức võ sĩ đánh cuội”, rồi lần ông bị võ sư Hồ Văn Lành (Từ Thiện) làm đơn tố cáo đã “dụ dỗ mua chuộc” nữ võ sĩ Hồ Bạch Yến về đầu quân võ đường Huỳnh Tiền (nữ võ sĩ này sau đổi võ danh là Lý Huỳnh Yến, tay đấm “độc cô cầu bại” - người sáng lập Huỳnh Võ Đạo).
Huỳnh Tiền có công phát hiện và đào tạo nhiều tay đấm sừng sỏ như Dương Văn Me, Rémy Huỳnh, Vũ Huỳnh, Đức Huỳnh, Michael Huỳnh, Hiệp Huỳnh, Vũ Bảo, Huỳnh Sơn, Lý Huỳnh… Những năm tháng cuối đời, Huỳnh Tiền sống trong bệnh tật (huyết áp cao, tim mạch), cặp mắt không còn thấy được ánh sáng và đôi tai nghễnh ngãng - di chứng từ những trận đấu năm xưa. “Con cáo già” Huỳnh Tiền đã lặng lẽ qua đời vào năm 1996 nhưng “bộ lông” (thành tích thi đấu) thì mãi mãi được vinh danh trong kho tàng lịch sử võ học nước nhà.
Ngọc Thiện
Xem tiếp…

Kỳ nhân làng võ - Kỳ 4: Truyền nhân Vịnh Xuân quyền

tháng 8 25, 2018 |

TNO - Nói đến Vịnh Xuân quyền, những người yêu võ thuật ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn liền nghĩ ngay đến quyền sư Lục Viễn Khai và đồ đệ Lục Hào Kim, những truyền nhân đưa môn võ học này tồn tại và phát triển ở Việt Nam.



Vịnh Xuân quyền do danh sư Nguyễn Tế Công truyền bá tại Hà Nội. Đến năm 1954, di cư vào nam, ông tiếp tục dạy môn công phu này tại Chợ Lớn cho 3 đồ đệ Quang Sáng, Trương Cao Phong và Lục Viễn Khai tại nhà nhị đệ tử Trương Cao Phong (tiệm may Thượng Hải, đường Đồng Khánh, Q.5). Ngoài dạy võ, Nguyễn Tế Công còn chữa trật đả, gãy xương tại tiệm thuốc Lôi Công đường (cạnh rạp hát Lido, Q.5).

Sau 8 năm thụ đắc Vịnh Xuân quyền từ Nguyễn sư phụ, Lục Viễn Khai chỉ truyền dạy cho 3 đồ đệ là bằng hữu Lương Kiều Vũ, bào đệ Lục Hào Kim và nữ võ sĩ Lý Huỳnh Yến tại tiệm photo Thần Quang (Tản Đà, Q.5), bởi Lục Hào Kim là thợ “tút rửa” ảnh tại đây và tiệm này có khoảng sân để luyện tập. Trong suốt thời gian truyền bá Vịnh Xuân quyền, không may quyền sư Lục Viễn Khai bị bệnh và ông tạ thế năm 1981, hưởng thọ 60 tuổi. Những gì ông truyền đạt lại đã được 3 đồ đệ nỗ lực giữ gìn, chỉ tiếc là người con trai Nguyễn Trí Thành lại không theo nghề võ.

Lục Hào Kim (sinh năm 1934) tại huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), vốn là vận động viên bơi lội, đến năm 22 tuổi mới theo sư huynh Lục Viễn Khai tập Vịnh Xuân quyền. Ông Lục Hào Kim cho biết: “Lấy nền tảng từ một môn võ có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, môn phái Vịnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được truyền dạy âm thầm trong các gia tộc trở thành một trong những phái võ được nhiều người biết đến và say mê luyện tập nhất, với hàng triệu đệ tử và hàng chục hệ phái trên toàn thế giới”. Vịnh Xuân quyền chỉ duy nhất bài Tiểu Luyện Đầu. “Theo sư huynh tôi truyền lại thì môn phái không có Ngũ Hình quyền và nội công như ở Hà Nội, tại Hồng Kông, danh sư Diệp Vấn (sư phụ ngôi sao điện ảnh Lý Tiểu Long - NV) gọi là Tiểu Niệm Đầu và chế tác thêm chiêu thức Trầm Kiều và Biêu Chỉ”, lão võ sư Lục Hào Kim tâm sự.

Bài danh quyền Tiểu Luyện Đầu gồm 36 chiêu thức như Vân trung hạc (hạc trong mây) là động tác khởi động, Hạc hình thư bộ (bộ pháp khoan thai), Đại Phật chuyển thân (luyện xoay eo lưng), Song xà xuất động (công kích địch thủ), Nhị tử kiềm dương mã (tấn pháp), Mai hoa bộ (thân, thủ, bộ pháp), Hạc hình (đánh chỏ, gối và 5 đầu ngón tay), Xà hình (hai tay dính liền với tay đối phương, luyện khớp dẻo dai), Tam tinh quyền (3 quả đấm thôi sơn liên hoàn) cùng 8 phương pháp gồm Thán (ém tay), Phục (đè tay), Bòn (lật vai), Trầm (ém tay), Xuyên (xỉa gạt từ dưới hất lên), Biếu (dùng Song chỉ thọc mắt), Lòn (lật mu bàn tay đánh lên), Tắc (dùng ức bàn tay đánh xuống).

Vịnh Xuân quyền không múa may hoa mỹ lại ít sử dụng đòn chân, chiêu thức tập trung ở mười đầu ngón tay, cạnh mu bàn tay và cùi chỏ, tấn công yếu huyệt địch thủ từ đỉnh đầu xuống thắt lưng như trán, mắt, cổ, họng, màng tang, yết hầu… Môn sinh phải luyện hai cánh tay linh hoạt, dẻo dai và uy lực qua phương pháp Tiêu đả (đối kháng, tiêu nghĩa là hóa giải, đả là tấn công), Niêm thủ (dính tay) kết hợp luyện đánh mộc nhân và bao cát mỗi ngày.

Năm 2014, quyền sư Lục Hào Kim bước sang tuổi 80 nhưng trông ông vẫn nhanh nhẹn, tráng kiện và minh mẫn. Mỗi ngày hai giờ ông lên tận tầng 3 luyện Tiểu Luyện Đầu, đánh mộc nhân và bao cát. Ngoài dạy kèm Vịnh Xuân quyền cho vài đồ đệ tại tư gia, quyền sư còn dành thời gian vẽ tranh thủy mặc (ông là hội viên Hội Mỹ thuật TP.HCM, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam).

Ngọc Thiện
Xem tiếp…

Nét độc đáo từ Thiếu lâm Bằng Long Hải

tháng 8 25, 2018 |
Ra đời cách đây 34 năm, môn phái Thiếu Lâm Bằng Long Hải (TL-BLH) quy tụ được rất nhiều môn sinh từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Dù đã thành danh trên các lĩnh vực khác, nhiều người vẫn đến đây để học đạo, luyện sức khỏe và ý chí để vững vàng hơn trong cuộc sống và sự nghiệp.


HÀNH TRÌNH GIAN KHỔ
Ở tuổi 15, Phạm Văn Bằng được người cậu là Giám đốc Xí nghiệp gốm Móng Cái cho rời quê Hải Phòng để sang Quảng Tây (Trung Quốc) “ở với người quen và học nghề gốm sứ” như lời người cậu này nói. Đặt chân lên xứ người, ông Bằng lại được “người quen” cho học nghề làm đậu hũ một thời gian rất ngắn rồi bắt đi vào rừng… đốn củi.

Người quen đó chính là Quan Bản Thục – thầy dạy võ nổi tiếng thuộc môn phái Nga Mi Thuật, được phong là một trong bảy “con Hổ” của tỉnh Quảng Đông (dân số hơn 105 triệu người) – do tình hình quê nhà lộn xộn nên phải sang Hải Phòng lánh nạn trong 3 năm. Được cậu của ông Bằng cưu mang trong thời gian ở Việt Nam nên khi trở về Trung Quốc tiếp tục sinh sống ở tỉnh láng giềng Quảng Tây, ông Quan Bản Thục đã đồng ý với ân nhân của mình đem ông Bằng theo để truyền dạy võ nghệ.



Ban đầu ông Bằng được thầy giao đốn củi, mỗi ngày vác về nhà rất nhiều, sau đó “được lệnh” phải tự bẻ những thanh củi rất cứng ấy bằng… tay. Rất mệt nhọc nên đôi lúc ông cũng không khỏi ấm ức, nhưng sau này mới thầm cảm ơn thầy đã ngấm ngầm truyền dạy để đôi tay của ông càng ngày càng rắn chắc hơn.
Thầy còn yêu cầu ông chỉ được dùng tay chân để làm ngã những cây chuối sứ khổng lồ trên rừng. Chuối được giao đánh ngã ở đây chính là những cây “chuối mẹ” mọc ở trong rừng hoang với đường kính khoảng 40 – 50cm, mỗi cây “đẻ” ra cả trăm cây con và “mẹ con” chiếm một khu đất to bằng nguyên một ngôi nhà lớn.
Ông Bằng kể: “Do không ai chăm sóc, những lớp bên ngoài vỏ những cây chuối này rất dày và dai lắm. Tôi phải tập luyện rất gian khổ, vừa đấm bằng tay và đá bằng chân đến sưng tấy mà phải hai năm trời rèn luyện liên tục mới làm cho cây chuối ngã được!”.
Cũng chính nhờ ông Bằng kiên trì tập luyện, tiếp cận nhanh những đòn thế và vượt qua được nhiều thử thách trong suốt 3 năm ở Quảng Tây, thầy Quan Bản Thục quyết định truyền cho ông nhiều bài võ độc đáo, sau đó trao ông Bằng quyền đứng lớp những lúc thầy bận việc.
ĐÀO TẠO NHỮNG HỌC TRÒ GIỎI
Trong 7 năm ở xứ người, ông Bằng còn tự tìm thêm những bí quyết võ công của các môn phái khác nữa nên khi về nước mở lớp dạy võ được giới trẻ ở quê mình và các tỉnh miền Bắc theo học rất đông.
Cuối tháng 9/1975, võ sư Phạm Văn Bằng vào TP.HCM sinh sống và tiếp tục đào tạo nhiều môn sinh đủ các thành phần đến học như công an, bộ đội, dân quân tự vệ, sinh viên học sinh… Năm 1982, do yêu cầu phát triển và hội nhập, võ sư Phạm Văn Bằng đã sáng lập ra môn phái TL-BLH và trở thành Chưởng môn đầu tiên của môn phái này.
Đến nay, môn phái TL-BLH đã đào tạo được 12 võ sư và 20 chuẩn võ sư trong đó nổi bật có các võ sư: Nguyễn Tiến Khoát (hiện là Phó Giám đốc Trại giam Bình Dương), Nguyễn Quốc Bảo (Chi hội phó Võ cổ truyền Thị xã Dĩ An, Bình Dương), Nguyễn Văn Khoa (Chi hội trưởng Võ cổ truyền Q. Tân Bình, TP.HCM), Nguyễn Văn Thái (Phó Giám đốc Công ty TNHH VINA Xanh), Nguyễn Chiến Thắng (Luật sư)…
Những học trò có nhiều thành tích do chính đích thân Chưởng môn sáng lập Phạm Văn Bằng đào tạo là Nguyễn Thị Kim Ngân (học võ từ năm 3 tuổi, 7 năm liền đoạt HCV toàn quốc (2004 – 2010) nội dung biểu diễn Quyền và Binh khí, hiện là Kỹ sư Kinh tế, HLV quốc gia cao cấp và đang mở lớp dạy tại Q. Bình Thạnh).
Riêng hai võ sư Nguyễn Quốc Bảo và Nguyễn Văn Khoa cùng đoạt HCV toàn quốc các nội dung Đấu luyện binh khí đao và kiếm, Tay không đoạt binh khí… năm 2000 được người hâm mộ phong danh hiệu “Song hùng kỳ hiệp”. Những võ sư trên được tung đi đến 40 điểm tập trên toàn quốc (trên 2.000 võ sinh, đông nhất ở tỉnh Bình Dương, các quận Tân Bình, Tân Phú và Thủ Đức ở TP.HCM ) để tiếp tục đào luyện những học trò giỏi khác của môn phái.
Nhờ tập luyện gian khổ từ lúc nhỏ, đến nay dù tuổi đã lớn, Võ sư Phạm Văn Bằng vẫn rất khỏe khi thực hiện những đòn thế khó, chuyên chú khổ luyện bài Ngũ chảo công với động tác hít đất trên 10 đầu ngón tay.
Ông cho biết: “Độc đáo nhất của môn phái TL-BLH là chú tâm luyện quyền pháp; đôi tay và đôi chân của mình giống như một hàng rào, nếu không có động tác kín thì khó bảo vệ mảnh vườn thân thể lắm. Người học võ cần chú ý rèn luyện 4 tố chất: nhanh, mạnh, bền và chính xác, phải tập sao cho được trình độ cao để có thể hóa giải chính xác những đòn thế hiểm độc của đối thủ”.

Chuẩn võ sư Nguyễn Cao Cường (doanh nhân tại TP.HCM) tâm sự: “Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã có ước mơ trở thành một người văn võ toàn tài như các anh hùng trong lịch sử giữ nước.
Được gia đình cho phép, tôi đã đi tìm các danh sư có tiếng trong làng võ cổ truyền để trau dồi võ học, sau cùng có duyên được võ sư Phạm Văn Bằng trực tiếp thu nhận và giảng dạy lâu dài. Những môn sinh của thầy đều cho rằng thầy là một người sống rất tình cảm, võ công cao cường và tinh thần thượng võ của thầy là kim chỉ nam của chúng tôi trên con đường phát triển niềm yêu thích võ thuật của mình”.
Điều đáng vui mừng là trong đội ngũ môn sinh của môn phái TL-BLH còn có rất đông các em thiếu nhi được cha mẹ cho tập võ ngay từ khi còn rất nhỏ. Ở buổi tập tại chùa Pháp Vân (Q. Tân Phú, TP.HCM) trong tháng 10/2016, chúng tôi thấy có nhiều em thể hiện các bài quyền rất tốt như Trần Khải Minh (7 tuổi với bài Quyền căn bản, học võ từ lúc 4 tuổi khi đang học lớp chồi).
Còn Nguyễn Thị Quyên (10 tuổi, đang là học sinh giỏi lớp 5 , biểu diễn rất thuần thục bài Nhị thập quyền môn) thì phấn khởi nói: “Nhờ được tập võ sớm nên cháu thấy luôn được khỏe mạnh để học tập tốt mà còn tham gia nhiều hoạt động khác trong trường”.
Bài và ảnh: CHU NGỌC
Xem tiếp…

Những cậu bé lang thang trở thành võ sư "độc cô cầu bại"

tháng 8 25, 2018 |

Ngay từ thời niên thiếu, Mousetaza nhận thấy cần phải có võ nghệ phòng thân nên đã tìm đến các lò võ để học. Nghe danh Lâm Hữu Hội thượng đài bất khả chiến bại có mở lò võ ở Gò Vấp, Mousetaza đã đến xin bái sư phụ.

Trong số các võ sĩ lừng danh thời ấy của võ phái Long Hổ Hội phải kể đến Mousetaza. Đây là một cậu bé được sư tổ võ phái dạy cho rất nhiều bí kíp võ công. Mousetaza còn học được tuyệt chiêu "Tam chiến Lữ Bố" vang danh của phái Thiếu Lâm Nững Xị. Kế tiếp Mousetaza là Chà Và Hương (võ sư Ngô Văn Hương). Cậu bé lai Chà (cách gọi người Ấn Độ-PV) cũng là võ sĩ đánh cả trăm trận nhưng chưa biết mùi thất bại. Chà Và Hương cũng từng thọ giáo võ công Thiếu Lâm Nững Xị của Long Hổ Hội qua Mousetaza rồi nhiều võ phái khác.
Nghe/Xem - Những cậu bé lang thang trở thành võ sư 'độc cô cầu bại'
Phái Long Hổ Hội đã đào tạo nhiều võ sĩ lừng danh
"Độc cô cầu bại" Mousetaza
Nói về sư huynh Mousetaza, cả võ sư Long Phi Báu và Long Phi Thanh, những môn đệ của Long Hổ Hội còn dạy võ tại TP.HCM đều tỏ ra khâm phục. Họ thường ngợi khen, ca tụng về võ thuật và cả những lần thượng đài của Mousetaza. Võ sư Long Phi Thanh cho biết, thời ấy nói đến Mousetaza bất cứ ai cũng đều biết đến. Đặc biệt là giới võ thuật và lính đặc công. Thời đó, Mousetaza chưa từng thất bại. Ông thượng đài từ Nam ra Bắc nhưng không có đối thủ. Với tuyệt chiêu "Tam chiến Lữ Bố" của Long Hổ Hội, Mousetaza được mệnh danh là "độc cô cầu bại" trên các võ đài.
Mousetaza không phải là con cháu của cố võ sư Lâm Hữu Hội. Ông thực chất là một cậu bé người Việt lai Ấn Độ, được sinh ra tại khu ngã sáu chợ Lớn. Không ai nhớ Muosetaza sinh vào năm nào. Họ chỉ biết ông là con của một cô gái Việt lấy một thanh niên Ấn Độ. Vào đầu thế kỷ XX, khu vực ngã sáu chợ Lớn có nhiều người nuôi bò sữa. Trong số này có khá nhiều người Ấn Độ đến Sài Gòn và sống bằng nghề này. Do vậy, nơi đây còn có cái tên gọi là khu "Chuồng bò".
Ngay từ thời niên thiếu, Mousetaza nhận thấy cần phải có võ nghệ phòng thân nên đã tìm đến các lò võ để học. Nghe danh Lâm Hữu Hội thượng đài bất khả chiến bại có mở lò võ ở Gò Vấp, Mousetaza đã đến xin bái sư phụ. Vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó nên ông được cố võ sư Lâm Hữu Hội rất thương. Đó là nghĩa khí giang hồ. Ông truyền dạy cho cậu bé lai Chà nhiều bí kíp của Thiếu Lâm Nững Xị, trong đó có tuyệt chiêu "Tam chiến Lữ Bố" nổi tiếng Sài Gòn và giới võ lâm lúc bấy giờ.
Võ sư Long Phi Thanh cho biết, trong những năm còn ở đỉnh cao của sự nghiệp đấu võ đài, có lần Mousetaza đã hạ gục một cao thủ người Thái Lan tại Sài Gòn. Lúc ấy, võ sĩ Muay Thái là Ti Noi sang Việt Nam và thách đấu giới võ lâm, giang hồ Sài Gòn. Trước đó, Ti Noi đã hạ nhiều cao thủ người Việt. Đến khi gặp Mousetaza, với võ công cao cường thì Ti Noi phải ôm hận, về nước tiếp tục rèn luyện công phu, đợi ngày báo thù.
Sự nghiệp đấu võ đài của Mousetaza lên đỉnh cũng đồng nghĩa với ông được nằm trên đống tiền. Thời ấy, nhiều người nói vui có võ là có tiền. Võ sư nào cứ lên võ đài đấu thắng sẽ có rất nhiều tiền. Đánh trận càng lớn, tiền về càng nhiều. Thời hoàng kim, Mousetaza đã cưới vợ và mở một trang trại nuôi bò sữa tại Bà Quẹo. Nghiễm nhiên, ông trở thành ông chủ giàu có, sống vương giả.
Những tưởng cuộc sống sẽ thăng hoa với một võ sĩ lừng danh nhưng chính vì tiền mà ông lao vào tệ nạn bài bạc, rượu bia và hút xách… Dần dần, những thứ này đã khiến Mousetaza tan gia, bại sản. Những cuộc vui quên đường về cũng làm ông mất dần võ công bao năm khổ luyện.
Một thời gian sau, Ti Noi đã luyện tới đỉnh cao công phu và quay lại Sài Gòn thách đấu Mousetaza để báo thù trận thua nhục nhã năm xưa. Vì danh dự và sự khiêu chiến của đối thủ, Mousetaza thượng đài nghênh chiến. Nhưng vì ăn chơi, nghiện rượu nên chẳng mấy chốc, Ti Noi đã hạ Mousetaza phục thù.
Có người cho rằng, sau khi bị Ti Noi hạ, Mousetaza còn bị Kinh Kha (võ sư người Hoa, phái Bạch Mi) hạ gục. Sau này, sư đệ của Mousetaza là Long Mouse (tức Đới Văn Quý) đã rửa hận cho sư huynh bằng trận đánh hạ Kinh Kha với tuyệt chiêu cùi chỏ lật nổi tiếng. Liên tục thua trận, Muosetaza đã thấy mình bước sang bên kia sườn dốc của sự nghiệp. Lúc này, võ sư nổi tiếng ngày nào lâm vào cảnh bi đát. Vợ con bỏ đi, Muosetaza tìm đến rượu để giải tỏa uất ức và buồn bã. Võ sư Long Phi Báu cho biết, ông qua đời vì bệnh tật tại Bà Quẹo. Sự nghiệp thăng hoa của một võ sĩ phái Long Hổ Hội chấm dứt từ đó.
Nghe/Xem - Những cậu bé lang thang trở thành võ sư 'độc cô cầu bại' (Hình 2).
Một thế Thiếu Lâm Nững Xị của Long Hổ Hội
Những trận đánh nổi tiếng của cậu bé đánh giầy
Võ sư Chà Và Hương tên thật là Ngô Văn Hương, từng là cố vấn cho Hội Võ Cổ truyền TP.HCM. Chà Và Hương cũng là một võ sĩ khét tiếng Sài Gòn xưa. Ông hiện sống tại Thủ Đức (TP.HCM). Nói về Chà Và Hương, võ sư Long Phi Báu cho biết, đây là võ sư được học nhiều môn phái võ khác nhau. Chà Và Hương cũng từng học Thiếu Lâm Nững Xị của Long Hổ Hội nhưng không học trực tiếp từ sư tổ Lâm Hữu Hội mà học từ Mousetaza.
Chà Và Hương sinh ra tại đất Long Xuyên, An Giang và sớm lên Sài Gòn mưu sinh. Là con lai Chà giống sư phụ một thời nên ông được đặt họ Chà. Học hành dở dang, ông theo đám trẻ lang thang hành nghề đánh giầy ở Sài Gòn. Chính cuộc sống "đầu đường xó chợ" đã dẫn Chà Và Hương tới những võ đài. Một lần, tại Tây Ninh, vì muốn kiếm tiền nên Chà Và Hương đã lên võ đài đấu với một võ sĩ là đệ tử của võ sư Cao Thành Sang và bị võ sĩ này đánh cho tơi tả.
Chính sau trận thua này, ông về Sài Gòn và gặp Mousetaza tại Bà Quẹo để bái sư. Tại đây, ông được Muosetaza dạy cho các tuyệt chiêu Long Hổ Hội. Sau đó, cậu bé lai Chà theo học nhiều sư phụ của các môn phái khác nữa. Và trong những lần thượng đài từ miền Tây như Bến Tre, Mỹ Tho, Long Xuyên đến các tỉnh miền Đông, từ Tây Nguyên là Biên Hòa, Buôn Ma Thuật… rồi ra các tỉnh miền Trung như Bình Định, Khánh Hòa… Chà Và Hương chưa một lần nào thất bại.
Khi đã ngoài tuổi 30, ông quyết định giải nghệ tuy nhiên vẫn muốn đánh một trận lớn. Nghĩ thế, Chà Và Hương thách đấu "hùm xám miền Trung" là võ sư Hà Trọng Sơn tại Quy Nhơn. Hà Trọng Sơn nhận lời nhưng cho con trai là võ sĩ Hà Trọng Khôi, lính trinh sát chế độ cũ thượng đài. Trận đấu thu hút đông đảo người đến xem. Tuy nhiên, sau vài đòn, Hà Trọng Khôi liên tục dính đòn và nằm trên sàn đau đớn. Võ sư Hà Trọng Sơn phải rút khăn trắng xin thua cho con. Bác sĩ kiểm tra cho thấy Hà Trọng Khôi không thể tiếp tục thi đấu.
Sau trận đánh, Chà Và Hương về mở lò dạy võ tại Bình Thạnh (TP.HCM) và tham gia bảo kê các nhà hàng, sòng bạc tại Sài Gòn. Các đệ tử có máu mặt của Chà Và Hương là Phi Long (Tạ Văn Hường), Phi Hổ (Lê Văn Hậu), Phi Hải (Lê Văn Phước), Phi Hùng (Lâm Văn Phi) và nữ võ sĩ Cẩm Hồng được giới giang hồ gọi "ngũ hổ tướng". Họ đánh đấm, quậy phá khắp nơi. "Ngũ hổ tướng" cùng với hàng trăm đệ tử của Chà Và Hương bảo kê hầu hết các quán bar, nhà hàng, sòng bạc nằm trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) và Hai Bà Trưng (quận 1, TP.HCM ngày nay)… Sau đó, những cuộc chiến giành lãnh địa của các băng đảng giang hồ khác như Đại Cathay, Tín Mã Nàm, Hải Phùng Kim... đã buộc Chà Và Hương dạt sang Biên Hòa (Đồng Nai) ngày nay. Sau khi đất nước thống nhất, Chà Và Hương đã quay lại nghiệp võ. Sau đó ông làm cố vấn cho Hội Võ Cổ truyền TP.HCM. 
Trung Nghĩa
Xem tiếp…

THIẾU LÂM BẠCH MI

tháng 8 25, 2018 |


Sau khi Báo CATP số ra ngày 20-3 đăng ký sự Võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn, bài Thiếu Lâm Bạch Mi, được biết hiện có một người trẻ tuổi tự xưng là chưởng môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi. Nhằm xác minh danh xưng trên, PV đã gặp võ sư Huỳnh Chí Dân (chưởng môn phái Thiếu Lâm Chánh Tông Thái Lý Phật) - từng nhiều năm học Thiếu Lâm Bạch Mi và lão võ sư Khổng Thọ để làm rõ vấn đề.

Đại lão võ sư Trương Lễ Tuyền (ngồi), chưởng môn đời thứ ba môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi, được mệnh danh là “Đông Giang chi hổ”

KỲ NHÂN TRƯƠNG LỄ TUYỀN

Sư tổ Trương Lễ Tuyền (huyện Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) là “võ thuật thế gia”, ông tổ là Trương Ngọc Đường làm phó tướng triều đình nhà Thanh. Từ nhỏ, Trương Lễ Tuyền đã ham mê võ thuật, từng theo thọ giáo các vị danh sư Lâm Thạch, Lý Tùng (Lý gia quyền), Lâm Hiệp (Lâm gia quyền) và Linh Hư đạo sĩ. Sau đó, ông bái Trúc Pháp Vân thiền sư làm thầy (sư phụ Trúc Pháp Vân thiền sư là Quảng Huệ đại sư. Quảng Huệ đại sư là đệ tử chân truyền của Bạch Mi đạo trưởng).

Được Trúc Pháp Vân thiền sư tận tâm truyền dạy những sở đắc bí truyền công phu nội gia Bạch Mi cộng thêm sự khổ luyện và tiếp thu nhanh, tổ sư Trương Lễ Tuyền đã đạt đến trình độ “cảnh giới siêu việt” của võ thuật. Sau nhiều năm tu học, tổ sư Trương Lễ Tuyền từ giã sư phụ trở về Quảng Đông, thâu nhận môn đồ giảng dạy và phát dương quảng đại môn phái Bạch Mi, được giới võ lâm tôn kính tặng danh hiệu “Đông Giang chi hổ” (con hổ xứ Giang Đông), người đời sau tôn ông là “vị tổ Bạch Mi của tục gia đệ tử”. Các đồ đệ nổi bật gồm ba người con là Trương Bình Lâm, Trương Bình Phát, Trương Bình Sâm, Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa...

Bốn vị sư huynh đệ đưa môn phái Bạch Mi sang Việt Nam gồm Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa (võ sư Khưu Nhơn Hòa không thâu đệ tử). Gồm ba chi nhánh: 1) Lại Quý Đình thâu các đệ tử là Huỳnh Hưng Hoa, Tất Diễn, Trần Lâm, Lê Dung Huy, Trần Khai, Thủy Dung. 2) Huỳnh Thiệu Long có các đệ tử là Huỳnh Hớn, Huỳnh Quý Nam, Huỳnh Quan Lâm, Chu Kim. 3) Tăng Huệ Bác có các đệ tử là Tăng Bỉ Đức (con trai), Diệp Quốc Lương, Lăng Doanh, Lý Cẩm Tường, Huỳnh Quốc Huy, Huỳnh Tô, Quan Hùng.

Cố võ sư Diệp Quốc Lương (Trưởng đội lân Liên Thắng Đường) là đại đệ tử của sư ông Tăng Huệ Bác

SCANDAL CHẤN ĐỘNG LÀNG VÕ SÀI GÒN - CHỢ LỚN

Năm 1958, võ lâm trong cộng đồng người Hoa nói chung và vùng Chợ Lớn nói riêng bỗng đâu xuất hiện tin qua báo chí: “Võ sư Trần Tử Long thuộc phái Ưng Trảo công sẽ từ Hồng Kông qua Việt Nam khiêu chiến với võ sư Diệp Quốc Lương - môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi, vùng Chợ Lớn”, còn có tin võ sư Trần Tử Long được mệnh danh là “con thần long thấy đầu mà không thấy đuôi”, nổi tiếng với tuyệt kỹ Ưng Trảo (môn công phu dùng 5 ngón tay xỉa vào tường làm vỡ gạch), tại Hồng Kông khi đấu với võ sĩ Ấn Độ, ông này đã dùng độc chiêu Ngũ chỉ long trảo bóp nát hộp sọ đối phương!

Đại sư Tăng Huệ Bác cấp tốc gọi điện xác minh về thân thế Trần Tử Long qua võ sư Quan Đức Hưng (diễn viên chuyên đóng vai Hoàng Phi Hồng) và ông Lưu Tram (đệ tử võ sư Lâm Thế Vinh), thì được trả lời: Ông Trần Tử Long là cao thủ Ưng Trảo công, sau khi đấu đài dẫn đến chết người đã rời Hồng Kông không rõ đi đâu, có người nói ông đi Nam Dương (Indonesia) hoặc đã sang Việt Nam.

Để đối phó, đại sư Tăng Huệ Bác cấp tốc ngày đêm truyền dạy những tuyệt kỹ, kinh nghiệm cho đệ tử Diệp Quốc Lương, đồng thời dặn dò: “Con phải ráng luyện tập để đấu trận này, con phải thắng vì danh dự môn phái và thầy trò mình!”. Võ sư Diệp Quốc Lương không phụ lòng thầy, nỗ lực rèn luyện không ngừng. Ngày thượng đài đã đến, võ đài lập tại sân Tao Đàn, thầy trò Tăng Huệ Bác - Diệp Quốc Lương đến điểm đấu từ rất sớm, tại đây đã có hàng ngàn khán giả háo hức chờ đợi cuộc thư hùng, rốt cuộc, chẳng thấy Trần võ sư xuất hiện, khán giả lỡ mua vé phản đối rần trời, buộc cảnh sát phải ra tay giải tán. Sau này mới biết cuộc thách đấu trên là do báo chí Sài Gòn dựng chuyện để bán báo, Trần Tử Long thứ thiệt thì biền biệt tăm hơi, báo chí Sài Gòn dựa vào ông Trần Tử Long - một người Hoa bán trái cây ngâm ở đường Bùi Hữu Nghĩa, Q5 (sau hành nghề Đông y cạnh sân Tinh Võ, Q5) nhằm tạo scandal để bán báo! Sau vụ việc này, Trần Tử Long “dỏm” bị đệ tử của Diệp Quốc Lương xử một trận no đòn vì dám cả gan thách thức môn phái. Võ sư Diệp Quốc Lương đào tạo các đệ tử nổi tiếng gồm Nhâm Phước Đường (Đậu Sị), Trần Thiên Luân (Hồ Tiêu), Diêu Phước Dũng, Khổng Thọ (Bánh Súc)...

Theo hệ phả, Thiếu Lâm Bạch Mi ở Việt Nam hiện nay chưa có danh xưng chưởng môn, chỉ có các vị trưởng lão, hiện một võ sư trẻ tên H.L.N.K tự xưng là chưởng môn Thiếu Lâm Bạch Mi là hoàn toàn bịa đặt, Bạch Mi truyền sang Việt Nam do công bốn vị sư huynh đệ tiền bối Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa, vì là đồng môn nên các vị đã nhất trí không dùng danh xưng chưởng môn mà lập ra một hội đồng trưởng lão, do các chi nhánh tiền bối hợp lại (chỉ có đại sư huynh hoặc thầy chỉ định) do đó từ trước đến nay môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi không có danh xưng chưởng môn ở Việt Nam, nếu có chỉ là sự bịa đặt.

Ngọc Thiện (CATP) 
Xem tiếp…

Bài viết với thời gian

Tổng truy cập